Content:
Sinh bệnh học
Nội dung của trang này:
Giới thiệu
Dịch tễ học
Sinh bệnh học
Yếu tố nguy cơ
Phân loại
Nội dung của trang này:
Giới thiệu
Dịch tễ học
Sinh bệnh học
Yếu tố nguy cơ
Phân loại
Giới thiệu
Bệnh thần kinh do DM là nhóm các tình trạng thoái hóa tiến triển ảnh hưởng đến thần kinh tự chủ, thần kinh vận động hoặc thần kinh cảm giác ngoại biên ở bệnh nhân DM và không thể quy cho các nguyên nhân khác của bệnh thần kinh ngoại biên, do đó đây là chẩn đoán loại trừ.
Dịch tễ học
Bệnh thần kinh do DM là biến chứng mạn tính thường gặp nhất của DM, ảnh hưởng khoảng 50% bệnh nhân DM. Bệnh thường gặp hơn ở người trưởng thành >50 tuổi và ở bệnh nhân DM type 2. Đây cũng là dạng bệnh thần kinh phổ biến nhất quan sát ở các nước phát triển. Đáng chú ý, tỷ lệ mắc bệnh thần kinh do DM phụ thuộc vào mức độ nặng và thời gian mắc bệnh; tỷ lệ mắc tăng theo thời gian mắc bệnh. Trong các thể khác nhau của bệnh thần kinh do DM, bệnh thần kinh ngoại biên do DM (DPN) là dạng phổ biến nhất và được nghiên cứu nhiều nhất. Trong khi tỷ lệ mắc DPN ở bệnh nhân DM type 1 khoảng 11-13%, hơn một nửa số người mắc DM type 2 phát triển DPN.
Các nghiên cứu ở Malaysia cho thấy bệnh thần kinh do DM có tỷ lệ mắc ước tính khoảng 10-30%. Ở Philippines, DM cũng là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh thần kinh, với 42% bệnh nhân DM bị mắc biến chứng này.
Các nghiên cứu ở Malaysia cho thấy bệnh thần kinh do DM có tỷ lệ mắc ước tính khoảng 10-30%. Ở Philippines, DM cũng là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh thần kinh, với 42% bệnh nhân DM bị mắc biến chứng này.
Sinh bệnh học
Cơ chế sinh bệnh của bệnh thần kinh do DM là đa yếu tố và chủ yếu do căng thẳng oxy hóa và viêm kết hợp với rối loạn chuyển hóa, cuối cùng gây tổn thương tế bào thần kinh.
Diabetic Neuropathy_Disease Background
Diabetic Neuropathy_Disease BackgroundYếu tố nguy cơ
Yếu tố nguy cơ của bệnh thần kinh do DM bao gồm cả yếu tố không thể thay đổi và có thể thay đổi. Yếu tố không thể thay đổi bao gồm cao tuổi và thời gian mắc DM, với nguy cơ phát triển bệnh thần kinh tăng theo tuổi và thời gian mắc bệnh. Chiều cao cũng là một yếu tố dự báo độc lập của bệnh thần kinh ở cả bệnh nhân DM type 1 và DM type 2.
Yếu tố nguy cơ có thể thay đổi bao gồm tăng đường huyết, béo bụng, rối loạn lipid máu (đặc biệt tăng triglycerid máu, làm tăng nguy cơ bệnh đa dây thần kinh đối xứng xa lên 2,1 lần), tăng cholesterol lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL-C) và giảm cholesterol lipoprotein tỷ trọng cao (HDL-C). Các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi khác như: tăng huyết áp, béo phì (chỉ số khối cơ thể [BMI], cân nặng và chu vi vòng eo liên quan đến bệnh thần kinh), hút thuốc và uống rượu nhiều.
Yếu tố nguy cơ có thể thay đổi bao gồm tăng đường huyết, béo bụng, rối loạn lipid máu (đặc biệt tăng triglycerid máu, làm tăng nguy cơ bệnh đa dây thần kinh đối xứng xa lên 2,1 lần), tăng cholesterol lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL-C) và giảm cholesterol lipoprotein tỷ trọng cao (HDL-C). Các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi khác như: tăng huyết áp, béo phì (chỉ số khối cơ thể [BMI], cân nặng và chu vi vòng eo liên quan đến bệnh thần kinh), hút thuốc và uống rượu nhiều.
Phân loại
Phân loại bệnh thần kinh do DM
Bệnh thần kinh lan tỏa hoặc toàn thể
Bệnh đa dây thần kinh cảm giác-vận động do DM là bệnh thần kinh cảm giác - vận động đối xứng, phụ thuộc chiều dài, xảy ra từ các biến đổi về chuyển hóa và mạch máu nhỏ do tiếp xúc kéo dài với tăng đường huyết mạn tính và các yếu tố nguy cơ tim mạch đi kèm. Đây là dạng phổ biến nhất của bệnh thần kinh do DM, ảnh hưởng khoảng 75% bệnh nhân DM. Bệnh đa dây thần kinh cảm giác-vận động do DM ảnh hưởng đến tới 50% bệnh nhân DM type 2 có thời gian mắc bệnh >10 năm và ít nhất 20% bệnh nhân DM type 1 có thời gian mắc bệnh lâu (≥20 năm). Bệnh có thể xuất hiện ở ít nhất 10-15% bệnh nhân DM type 2 mới được chẩn đoán. Bệnh đa dây thần kinh cảm giác-vận động do DM có diễn tiến mạn tính và kéo dài, là nguyên nhân phổ biến nhất gây loét bàn chân và cắt cụt chi dưới. Cần lưu ý rằng bệnh khớp thần kinh Charcot cũng có thể làm tăng nguy cơ loét và cắt cụt. Bệnh đa dây thần kinh cảm giác-vận động do DM thường khởi phát âm thầm, bắt đầu từ phần xa của chi và tiến dần lên trên, ảnh hưởng trước hết đến ngón chân và lòng bàn chân rồi dần lan lên chân. Triệu chứng ở đầu ngón tay và bàn tay thường xuất hiện khi triệu chứng ở chi dưới đã lan đến đầu gối. Bệnh đa dây thần kinh cảm giác-vận động đau do DM phổ biến hơn ở bệnh nhân có thời gian mắc bệnh lâu và kiểm soát đường huyết kém
Các bệnh thần kinh tự chủ do DM thường xảy ra ở bệnh nhân DM lâu năm (≥20 năm). Chúng ảnh hưởng đến thần kinh giao cảm, phó giao cảm và thần kinh ruột. Một dạng là bệnh thần kinh tự chủ tim mạch (CAN), liên quan đến suy giảm điều khiển tự chủ hệ tim mạch. Tỷ lệ mắc CAN tăng theo thời gian mắc bệnh DM. CAN có thể gây kéo dài khoảng QT ở bệnh nhân DM type 1, dẫn đến loạn nhịp tim nguy hiểm tính mạng và đột tử do tim. Ngoài ra, CAN có thể làm chậm chẩn đoán nhồi máu cơ tim thầm lặng hoặc không có triệu chứng do giảm cảm nhận cơn đau do thiếu máu cục bộ. Bệnh thần kinh tự chủ đường tiêu hóa (GI) có thể ảnh hưởng bất kỳ đoạn nào của ống tiêu hóa, có xu hướng xảy ra muộn hơn trong tiến trình DM. Bệnh thần kinh tự chủ niệu sinh dục có thể biểu hiện dưới dạng bệnh bàng quang do DM hoặc bàng quang thần kinh, rối loạn cương dương hoặc rối loạn chức năng tình dục nữ. Rối loạn tiết mồ hôi biểu hiện dưới dạng giảm tiết mồ hôi hoặc không có mồ hôi ở vùng xa, hoặc tiết mồ hôi khi ăn. Một dạng hiếm khác của bệnh thần kinh do DM là bệnh thần kinh cảm giác cấp tính, có thể chia thành bệnh thần kinh do điều trị và hội chứng suy mòn thần kinh. Bệnh thần kinh do điều trị, hay viêm dây thần kinh do insulin, là dạng bệnh thần kinh do thủ thuật gây ra bởi kiểm soát đường huyết nhanh trong bối cảnh tăng đường huyết mạn tính. Hội chứng suy mòn thần kinh do đái tháo đường là thể bệnh hiếm của bệnh thần kinh đau đối xứng, thường ảnh hưởng đến chi dưới và thân dưới.
Bệnh đơn dây thần kinh hoặc bệnh thần kinh khu trú
Bệnh đơn dây thần kinh hoặc bệnh thần kinh khu trú bao gồm bệnh thần kinh sọ đơn lẻ (dây thần kinh sọ [CN] III, IV, VI, VII) thường xảy ra ở bệnh nhân DM cao tuổi và mắc DM lâu năm. Chúng cũng bao gồm bệnh thần kinh ngoại biên đơn lẻ (dây thần kinh trụ, giữa, đùi, mác). Ước tính có khoảng một phần ba bệnh nhân DM mắc bệnh thần kinh chèn ép. Phổ biến nhất là hội chứng ống cổ tay, gặp ở 30% bệnh nhân có bệnh đa dây thần kinh do DM và bệnh thần kinh trụ gặp ở 2,1% bệnh nhân DM. Ngoài ra, có thể xảy ra viêm đơn dây thần kinh hoặc bệnh lý đơn đa dây thần kinh, trong đó nhiều dây thần kinh bị tổn thương
Rễ thần kinh hoặc đa rễ hoặc bệnh thần kinh đa ổ
Bệnh rễ thần kinh, đa rễ thần kinh hoặc bệnh thần kinh đa ổ bao gồm bệnh thần kinh đám rối-rễ do DM, có thể biểu hiện dưới dạng bệnh thần kinh đám rối-rễ cổ, bệnh rễ thần kinh ngực hoặc bệnh đa rễ thần kinh thắt lưng-cùng. Cả thể cổ và thể ngực đều ảnh hưởng đến sợi thần kinh vận động, cảm giác và tự chủ. Bệnh rễ thần kinh ngực chủ yếu ảnh hưởng bệnh nhân DM type 2. Bệnh đa rễ thần kinh thắt lưng-cùng, hay teo cơ vận động gốc chi, là loại thường gặp nhất của bệnh thần kinh đám rối- rễ do DM và chiếm khoảng 1% bệnh nhân trung niên mắc DM type 2 có rối loạn dung nạp glucose mức độ nhẹ.
Bệnh thần kinh lan tỏa hoặc toàn thể
Bệnh đa dây thần kinh cảm giác-vận động do DM là bệnh thần kinh cảm giác - vận động đối xứng, phụ thuộc chiều dài, xảy ra từ các biến đổi về chuyển hóa và mạch máu nhỏ do tiếp xúc kéo dài với tăng đường huyết mạn tính và các yếu tố nguy cơ tim mạch đi kèm. Đây là dạng phổ biến nhất của bệnh thần kinh do DM, ảnh hưởng khoảng 75% bệnh nhân DM. Bệnh đa dây thần kinh cảm giác-vận động do DM ảnh hưởng đến tới 50% bệnh nhân DM type 2 có thời gian mắc bệnh >10 năm và ít nhất 20% bệnh nhân DM type 1 có thời gian mắc bệnh lâu (≥20 năm). Bệnh có thể xuất hiện ở ít nhất 10-15% bệnh nhân DM type 2 mới được chẩn đoán. Bệnh đa dây thần kinh cảm giác-vận động do DM có diễn tiến mạn tính và kéo dài, là nguyên nhân phổ biến nhất gây loét bàn chân và cắt cụt chi dưới. Cần lưu ý rằng bệnh khớp thần kinh Charcot cũng có thể làm tăng nguy cơ loét và cắt cụt. Bệnh đa dây thần kinh cảm giác-vận động do DM thường khởi phát âm thầm, bắt đầu từ phần xa của chi và tiến dần lên trên, ảnh hưởng trước hết đến ngón chân và lòng bàn chân rồi dần lan lên chân. Triệu chứng ở đầu ngón tay và bàn tay thường xuất hiện khi triệu chứng ở chi dưới đã lan đến đầu gối. Bệnh đa dây thần kinh cảm giác-vận động đau do DM phổ biến hơn ở bệnh nhân có thời gian mắc bệnh lâu và kiểm soát đường huyết kém
Các bệnh thần kinh tự chủ do DM thường xảy ra ở bệnh nhân DM lâu năm (≥20 năm). Chúng ảnh hưởng đến thần kinh giao cảm, phó giao cảm và thần kinh ruột. Một dạng là bệnh thần kinh tự chủ tim mạch (CAN), liên quan đến suy giảm điều khiển tự chủ hệ tim mạch. Tỷ lệ mắc CAN tăng theo thời gian mắc bệnh DM. CAN có thể gây kéo dài khoảng QT ở bệnh nhân DM type 1, dẫn đến loạn nhịp tim nguy hiểm tính mạng và đột tử do tim. Ngoài ra, CAN có thể làm chậm chẩn đoán nhồi máu cơ tim thầm lặng hoặc không có triệu chứng do giảm cảm nhận cơn đau do thiếu máu cục bộ. Bệnh thần kinh tự chủ đường tiêu hóa (GI) có thể ảnh hưởng bất kỳ đoạn nào của ống tiêu hóa, có xu hướng xảy ra muộn hơn trong tiến trình DM. Bệnh thần kinh tự chủ niệu sinh dục có thể biểu hiện dưới dạng bệnh bàng quang do DM hoặc bàng quang thần kinh, rối loạn cương dương hoặc rối loạn chức năng tình dục nữ. Rối loạn tiết mồ hôi biểu hiện dưới dạng giảm tiết mồ hôi hoặc không có mồ hôi ở vùng xa, hoặc tiết mồ hôi khi ăn. Một dạng hiếm khác của bệnh thần kinh do DM là bệnh thần kinh cảm giác cấp tính, có thể chia thành bệnh thần kinh do điều trị và hội chứng suy mòn thần kinh. Bệnh thần kinh do điều trị, hay viêm dây thần kinh do insulin, là dạng bệnh thần kinh do thủ thuật gây ra bởi kiểm soát đường huyết nhanh trong bối cảnh tăng đường huyết mạn tính. Hội chứng suy mòn thần kinh do đái tháo đường là thể bệnh hiếm của bệnh thần kinh đau đối xứng, thường ảnh hưởng đến chi dưới và thân dưới.
Bệnh đơn dây thần kinh hoặc bệnh thần kinh khu trú
Bệnh đơn dây thần kinh hoặc bệnh thần kinh khu trú bao gồm bệnh thần kinh sọ đơn lẻ (dây thần kinh sọ [CN] III, IV, VI, VII) thường xảy ra ở bệnh nhân DM cao tuổi và mắc DM lâu năm. Chúng cũng bao gồm bệnh thần kinh ngoại biên đơn lẻ (dây thần kinh trụ, giữa, đùi, mác). Ước tính có khoảng một phần ba bệnh nhân DM mắc bệnh thần kinh chèn ép. Phổ biến nhất là hội chứng ống cổ tay, gặp ở 30% bệnh nhân có bệnh đa dây thần kinh do DM và bệnh thần kinh trụ gặp ở 2,1% bệnh nhân DM. Ngoài ra, có thể xảy ra viêm đơn dây thần kinh hoặc bệnh lý đơn đa dây thần kinh, trong đó nhiều dây thần kinh bị tổn thương
Rễ thần kinh hoặc đa rễ hoặc bệnh thần kinh đa ổ
Bệnh rễ thần kinh, đa rễ thần kinh hoặc bệnh thần kinh đa ổ bao gồm bệnh thần kinh đám rối-rễ do DM, có thể biểu hiện dưới dạng bệnh thần kinh đám rối-rễ cổ, bệnh rễ thần kinh ngực hoặc bệnh đa rễ thần kinh thắt lưng-cùng. Cả thể cổ và thể ngực đều ảnh hưởng đến sợi thần kinh vận động, cảm giác và tự chủ. Bệnh rễ thần kinh ngực chủ yếu ảnh hưởng bệnh nhân DM type 2. Bệnh đa rễ thần kinh thắt lưng-cùng, hay teo cơ vận động gốc chi, là loại thường gặp nhất của bệnh thần kinh đám rối- rễ do DM và chiếm khoảng 1% bệnh nhân trung niên mắc DM type 2 có rối loạn dung nạp glucose mức độ nhẹ.
