Bệnh Alzheimer và sa sút trí tuệ Tổng quan về bệnh

Cập nhật: 13 January 2025

Nội dung của trang này:

Nội dung của trang này:

Giới thiệu

Sa sút trí tuệ là một hội chứng lâm sàng được đặc trưng bởi sự suy giảm ≥1 chức năng nhận thức bao gồm trí nhớ, định hướng, tính toán, ngôn ngữ, phán đoán, điều hành, thị giác-không gian và thị giác-vận động. Có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau như bệnh Alzheimer, bệnh lý mạch máu não, các bệnh lý thoái hóa thần kinh (như sa sút trí tuệ do bệnh Parkinson, sa sút trí tuệ thể Lewy và các bệnh lý khác ảnh hưởng đến não).

Dịch tễ học

Tính đến năm 2023, hơn 55 triệu người mắc sa sút trí tuệ, trong đó hơn 60% bệnh nhân sống ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Gần 10 triệu trường hợp được chẩn đoán mỗi năm. Đến năm 2030, dự đoán con số này sẽ tăng lên 82 triệu người và trên 130 triệu người vào năm 2050.

Ở châu Á, có 22,9 triệu người mắc sa sút trí tuệ, trong đó có tới 3,6 triệu người mắc bệnh ở Đông Nam Á. Con số này dự kiến sẽ tăng lên 12,09 triệu người vào năm 2050. Ở Mỹ, ước tính khoảng 9,4 triệu người mắc sa sút trí tuệ, trong khi ở châu Âu là 10,5 triệu người và ở châu Phi là 4 triệu người.

Hiện nay, tỷ lệ mắc sa sút trí tuệ được chuẩn hóa theo độ tuổi dao động từ 5-7%, trong đó phụ nữ bị ảnh hưởng nhiều hơn. Ở người ≥60 tuổi, tỷ lệ mắc sa sút trí tuệ ước tính trong khoảng từ 4,7% ở Trung Âu đến 8,7% ở Bắc Phi và Trung Đông.

Sinh lý bệnh

Sinh lý bệnh của sa sút trí tuệ phức tạp và đa yếu tố. Đích đến cuối cùng là sự tích tụ và kết tụ của các sản phẩm, bao gồm các protein gấp nếp sai lệch, và/hoặc kết hợp với bệnh lý mạch máu não. Trong trường hợp bệnh Alzheimer, đặc điểm sinh lý bệnh bao gồm sự tích tụ các mảng amyloid não và các đám rối sợi thần kinh. Trong bệnh Alzheimer, có sự sản xuất quá mức và/hoặc giảm độ thanh thải peptide amyloid β. Cùng với đó, có sự phosphoryl hóa quá mức đáng kể của protein tau, là một loại protein liên kết vi ống có vai trò hỗ trợ quá trình sắp xếp vi ống. Bên cạnh Alzheimer, sa sút trí tuệ thể Lewy được đặc trưng bởi sự tích tụ protein α-synuclein thành thể Lewy ở synap và các sợi thần kinh trong não. Các yếu tố khác như sự suy giảm chất dẫn truyền thần kinh, mất synap thần kinh, rối loạn chức năng ty thể, stress oxy hóa, thiếu máu cục bộ do đáp ứng viêm, tín hiệu insulin bất thường và quá trình chuyển hóa cholesterol cũng có vai trò trong sinh lý bệnh của sa sút trí tuệ.

Alzheimer PathophysiologyAlzheimer Pathophysiology

Nguyên nhân

Các nguyên nhân có khả năng hồi phục gây sa sút trí tuệ bao gồm:

  • Nhiễm trùng (như viêm màng não, viêm não)
  • Bệnh não do nhiễm độc hoặc do chuyển hóa (như suy giáp, thiếu vitamin B12, hội chứng liên quan đến rượu)
  • Viêm (như bệnh não tự miễn)
  • U tân sinh nội sọ
  • Não úng thủy (não úng thủy do tắc nghẽn hoặc áp suất bình thường)
  • Mê sảng
  • Động kinh
  • Trầm cảm và các tình trạng tâm thần khác
  • Thuốc làm tăng gánh nặng kháng cholinergic
  • Chấn thương sọ não
  • Suy giảm giác quan (ví dụ như mất thính lực hoặc thị lực)

Các nguyên nhân không thể hồi phục gây sa sút trí tuệ bao gồm:

  • Các bệnh lý thoái hóa (như Alzheimer, bệnh Parkinson, sa sút trí tuệ thùy trán-thái dương, sa sút trí tuệ thể Lewy)
  • Bệnh lý mạch máu não (như đột quỵ, bệnh lý mạch máu nhỏ)
  • Rối loạn di truyền (như hội chứng Down)

Các yếu tố nguy cơ

Sa sút trí tuệ là bệnh lý đa yếu tố, gây ra bởi sự kết hợp của các yếu tố di truyền và môi trường. Những yếu tố này có thể được phân loại thành các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được và không thể thay đổi được.

Các yếu tố nguy cơ không thể thay đổi được bao gồm:

  • Tuổi cao: Tuổi ≥65 là yếu tố nguy cơ của mọi dạng bệnh sa sút trí tuệ
  • Giới tính: Nữ giới có nguy cơ mắc sa sút trí tuệ cao hơn, đặc biệt là Alzheimer
  • Di truyền:
    • Alzheimer khởi phát sớm: Gây ra do đột biến gen trội trên nhiễm sắc thể thường ở 3 gen được xác định; các tiền chất protein β amyloid trên nhiễm sắc thể 21, presenilin 1 trên nhiễm sắc thể 14 và presenilin 2 trên nhiễm sắc thể 1
    •  Khởi phát muộn (>65 tuổi): Có nhiều yếu tố gây ra nhưng liên quan nhiều đến yếu tố di truyền phức tạp và không đồng nhất
    • Gen apolipoprotein: Sự có mặt của biến thể ε4 góp phần vào sự tiến triển của bệnh Alzheimer khởi phát muộn và một vài trường hợp Alzheimer khởi phát sớm

Các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được bao gồm:

  • Tim mạch: Tăng huyết áp, đái tháo đường, béo phì và hút thuốc
  • Bệnh tâm thần: Trầm cảm tuổi cuối đời làm tăng nguy cơ mắc sa sút trí tuệ gấp 2 lần
  • Lối sống: Sử dụng nhiều rượu, không vận động và suy giảm các mối quan hệ xã hội

Phân loại

Bệnh Alzheimer

Bệnh Alzheimer là nguyên nhân phổ biến nhất của sa sút trí tuệ. Phần lớn bệnh nhân mắc bệnh có độ tuổi từ 65 trở lên, trong khi bệnh Alzheimer có tính chất gia đình hiếm gặp hơn và xuất hiện ở bệnh nhân dưới 65 tuổi. Ở bệnh nhân Alzheimer, triệu chứng sớm phổ biến nhất là mất trí nhớ ngắn hạn, sau đó là suy giảm nhận thức ở các khía cạnh khác sau vài năm. Sau khi mất trí nhớ, người bệnh sẽ trải qua mất chức năng điều hành, rối loạn ngôn ngữ, thay đổi nhân cách và hành vi, gặp khó khăn trong các hoạt động sinh hoạt hàng ngày và mất chức năng thị giác-không gian. Các triệu chứng tâm thần kinh phổ biến như trầm cảm, khó chịu, lo lắng, thờ ơ, kích động và hung hăng. Co giật và rung giật cơ thường biểu hiện trong giai đoạn muộn của bệnh.

Sa sút trí tuệ do bệnh lý mạch máu

Được báo cáo là nguyên nhân phổ biến thứ hai gây ra sa sút trí tuệ, do ảnh hưởng của bệnh mạch máu não lên chức năng nhận thức. Sa sút trí tuệ do bệnh lý mạch máu có thể xuất hiện đột ngột hoặc tiến triển dần theo thời gian. Bệnh nhân mắc bệnh có tiền sử đột quỵ hoặc các dấu hiệu và triệu chứng thần kinh khu trú. Dấu hiệu đặc trưng của bệnh là sự suy giảm rõ rệt các chức năng điều hành, có thể đi kèm với mất điều hòa vận động, dáng đi chậm dần, giảm dần khả năng chú ý và khả năng lập kế hoạch. Sự suy giảm nhận thức sẽ phụ thuộc vào vùng não bị ảnh hưởng bởi tổn thương mạch máu. Sa sút trí tuệ do bệnh lý mạch máu thường mắc kèm với bệnh Alzheimer, được gọi là sa sút trí tuệ hỗn hợp, đặc trưng bởi sa sút trí tuệ tiến triển dần theo thời gian trên nền bệnh lý mạch máu não đã biết. Sa sút trí tuệ do bệnh lý mạch máu khởi phát sớm có thể do nguồn gốc di truyền.

Sa sút trí tuệ thể Lewy

Sa sút trí tuệ thể Lewy được đặc trưng bởi sa sút trí tuệ, các đặc điểm của hội chứng Parkinson (như vận động chậm, cứng đơ và/hoặc tư thế không vững), nhận thức dao động, triệu chứng ảo thị rõ ràng và tái diễn. Theo ghi nhận, sa sút trí tuệ thể Lewy có triệu chứng tiến triển nhanh hơn bệnh Alzheimer. So với người mắc bệnh Alzheimer, bệnh nhân mắc sa sút trí tuệ thể Lewy gặp nhiều vấn đề hơn trong các chức năng điều hành như lập kế hoạch, xác định việc ưu tiên và sắp xếp thứ tự, suy giảm chức năng thị giác-không gian. Tuy nhiên, bệnh nhân sa sút trí tuệ thể Lewy có trí nhớ từ ngữ tốt hơn bệnh nhân Alzheimer. Các đặc điểm hỗ trợ chẩn đoán sa sút trí tuệ thể Lewy bao gồm nhạy cảm với thuốc an thần, ngã nhiều lần, ngất hoặc mất ý thức thoáng qua. Khởi phát các triệu chứng nhận thức liên quan đến vận động chậm thường là dưới 1 năm. Điều quan trọng là phải nhận biết các triệu chứng sa sút trí tuệ thể Lewy đe dọa tính mạng, đặc biệt là tác dụng ngoại tháp không mong muốn của thuốc chống loạn thần.

Sa sút trí tuệ do bệnh Parkinson

Ở những bệnh nhân mắc bệnh Parkinson, có tới ¾ số bệnh nhân tiến triển sa sút trí tuệ sau 10 năm. Sa sút trí tuệ do bệnh Parkinson được đặc trưng bởi nhận thức và vận động chậm chạp, suy giảm trí nhớ và rối loạn chức năng điều hành. Cần lưu ý rằng rất khó để phân biệt sa sút trí tuệ thể Lewy và sa sút trí tuệ do bệnh Parkinson trên lâm sàng. Tuy nhiên, trong sa sút trí tuệ thể Lewy, sự khởi phát của sa sút trí tuệ và hội chứng Parkinson xảy ra trong vòng một năm, trong khi rối loạn chức năng vận động xảy ra nhiều năm (10-15 năm) trước khi khởi phát sa sút trí tuệ trong sa sút trí tuệ do bệnh Parkinson.

*Vui lòng xem bài Quản lý Bệnh Parkinson & Sa sút trí tuệ do Parkinson để biết thêm thông tin

Sa sút trí tuệ thùy trán-thái dương

Sa sút trí tuệ thùy trán-thái dương, còn được gọi là thoái hóa thùy trán-thái dương, xuất hiện ở bệnh nhân 50-60 tuổi. Bệnh nhân sa sút trí tuệ thùy trán-thái dương chiếm một tỷ lệ đáng kể trong số những người mắc sa sút trí tuệ dưới 65 tuổi. Trong giai đoạn sớm, bệnh nhân có biểu hiện thay đổi tính cách, kèm theo suy giảm các kỹ năng xã hội, cảm xúc cùn mòn, rối loạn ngôn ngữ sớm, rối loạn chức năng điều hành và thờ ơ đáng kể. Bệnh nhân mắc sa sút trí tuệ thùy trán-thái dương có biểu hiện suy giảm dần dần các kỹ năng giao tiếp, mất khả năng đáp ứng cảm xúc và xuất hiện các hành vi bất thường như mất kiềm chế, ám ảnh, nghi thức, khuôn mẫu, thay đổi cách ăn uống và cảm giác thèm ăn. Khó khăn về trí nhớ, mất điều hòa vận động và các đặc điểm khác của bệnh sa sút trí tuệ thường xuất hiện muộn hơn khi bệnh tiến triển. Chụp cắt lớp vi tính não (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) sẽ cho thấy teo thùy trán hoặc thái dương trước. Trong khi chụp cắt lớp vi tính phát xạ đơn photon (SPECT) hoặc chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) cho thấy tình trạng giảm tưới máu hoặc giảm chuyển hóa vùng trán. Tiến triển của sa sút trí tuệ thùy trán-thái dương nhanh hơn so với Alzheimer.

Các rối loạn sa sút trí tuệ tiến triển khác

Bệnh Huntington

Bệnh Huntington là một bệnh di truyền gen trội trên nhiễm sắc thể thường, chủ yếu ảnh hưởng đến hạch nền và các cấu trúc dưới vỏ não khác. Bệnh biểu hiện bằng các triệu chứng vận động (như múa giật), tâm trạng, hành vi và nhận thức.

Bệnh Creutzfeld-Jakob

Bệnh có đặc điểm là bệnh não tiến triển nhanh, suy giảm nhận thức nhanh và tử vong trong vòng 1,5 năm.