Hen phế quản Tổng quan về bệnh

Cập nhật: 17 January 2025

Nội dung của trang này:

Nội dung của trang này:

Giới thiệu

Là bệnh không đồng nhất đặc trưng bởi viêm đường thở mạn tính dẫn đến các đợt tái phát của khò khè, khó thở, tức ngực và ho, thay đổi theo thời gian và mức độ, kèm theo sự biến thiên của hạn chế luồng khí thở ra.

Dịch tễ học

Hen là một bệnh hô hấp mạn tính, không lây nhiễm, phổ biến, ảnh hưởng đến 1-18% dân số ở nhiều quốc gia khác nhau. Trên toàn thế giới, bệnh ảnh hưởng đến khoảng 300 triệu người, gây ra khoảng 1.000 ca tử vong mỗi ngày. Nó có liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh và tử vong đáng kể. Ở Hoa Kỳ, hen ảnh hưởng đến 7,9% dân số, với tỷ lệ mắc cao nhất ở người Puerto Rico. Tại châu Á, đây được coi là một bệnh mạn tính chính, đặc biệt ở các quốc gia có thu nhập từ thấp đến trung bình.

Khảo sát Dịch tễ học và Yếu tố nguy cơ của Hen tại Trung Quốc (CARE) từ năm 2010-2012 báo cáo rằng tỷ lệ mắc bệnh là 1,24% ở Trung Quốc lục địa trong số những người từ 14 tuổi trở lên. Gần đây hơn, Sức khỏe Phổi Trung Quốc đã báo cáo rằng tỷ lệ mắc bệnh là 4,2% trong giai đoạn 2012-2015 đối với những người từ 14 tuổi trở lên.

Nghiên cứu ở Ấn Độ về Dịch tễ học Hen phế quản, Triệu chứng hô hấp và Viêm phế quản mạn tính (INSEARCH) báo cáo rằng gánh nặng quốc gia ước tính của bệnh là 17,23 triệu người, với tỷ lệ mắc chung là 2,05% ở những người trên 15 tuổi. Theo báo cáo của Mạng lưới hen toàn cầu (GAN) năm 2022, khoảng 35 triệu người đã được chẩn đoán mắc hen ở Ấn Độ.

Tại Thái Lan, tỷ lệ mắc hen vẫn cao trong nước mặc dù việc tiếp cận thuốc kiểm soát hen và các hướng dẫn về hen ngày càng tiến bộ, theo GAN. Một nghiên cứu báo cáo rằng tỷ lệ mắc bệnh ở quốc gia này từ năm 2001-2002 là 3% trong số những người từ 20-44 tuổi. Dựa trên Khảo sát Quốc gia về Sức khỏe và Bệnh tật tại Malaysia năm 2006, tỷ lệ mắc hen là 4,5% ở những người từ 18 tuổi trở lên. Khảo sát Dinh dưỡng và Sức khỏe Quốc gia mới nhất ở Philippines báo cáo rằng tỷ lệ mắc bệnh chung là 8,7%.

Sáng kiến toàn cầu về Hen năm 2004 báo cáo rằng tỷ lệ mắc bệnh ở Hàn Quốc là 3,9%. Theo Khảo sát Sức khỏe và Dinh dưỡng Quốc gia Hàn Quốc (KNHANES), tỷ lệ mắc hen là 2,0% vào năm 2008, mặc dù dữ liệu từ Bảo hiểm Quốc gia Hàn Quốc báo cáo rằng tỷ lệ mắc bệnh là 4,7% trong cùng năm.

Hen phổ biến hơn ở trẻ em so với người lớn. Ở trẻ em, bé trai bị ảnh hưởng nhiều hơn bé gái, tuy nhiên, khi trưởng thành, bệnh lại phổ biến hơn ở phụ nữ.

Sinh lý bệnh

Dấu hiệu bệnh lý đặc trưng của hen là tình trạng tăng phản ứng đường thở, được định nghĩa là sự thu hẹp đường thở cấp tính để phản ứng với các tác nhân mà bình thường không gây ra phản ứng đường thở ở những người không bị ảnh hưởng. Tăng phản ứng xảy ra cụ thể ở mức độ cơ trơn của đường thở. Các tế bào viêm (như bạch cầu ái toan, bạch cầu trung tính, tế bào mast), histamin, leukotrien và dây thần kinh cảm giác đều đóng vai trò trong việc tăng phản ứng đường thở và co thắt phế quản. Về mặt cấu trúc, sự dày lên của thành đường thở cũng góp phần làm thu hẹp đường thở, đây là kết quả của sự phì đại và tăng sinh cơ trơn, viêm đường thở, phù nề dưới niêm mạc và sự lắng đọng collagen trên màng đáy dưới biểu mô. Sự biến dạng của các tế bào goblet trong biểu mô và tăng tiết chất nhầy do viêm mạn tính hình thành các nút nhầy có thể gây tắc nghẽn các đường thở nhỏ và trung bình.

Asthma_Disease Background_1Asthma_Disease Background_1


Viêm đường thở (đặc biệt là viêm type 2) cũng là một dấu hiệu quan trọng trong sinh lý bệnh của hen phế quản. Nó tương tự với các phản ứng pha sớm và muộn liên quan đến các phản ứng quá mẫn, trong đó sự tiếp xúc ban đầu với dị nguyên kích hoạt sự hình thành các kháng thể IgE đặc hiệu. Những kháng thể này sau đó gắn vào các thụ thể trên tế bào mast, và khi tiếp xúc lại với cùng một dị nguyên, dị nguyên sẽ liên kết chéo với các kháng thể IgE đặc hiệu trên tế bào mast, gây ra hiện tượng giải hạt nhanh chóng của tế bào mast, giải phóng các chất trung gian hóa học gây ra các triệu chứng hen phế quản.

Viêm đường thở cũng được điều hòa bởi các tế bào T-helper type 2 thuộc phân nhóm CD4+, các tế bào này sản xuất các interleukin 4, 5 và 13. Interleukin-4 chịu trách nhiệm cho việc chuyển đổi isotype của tế bào B để sản xuất IgE, interleukin-5 chủ yếu điều hòa bạch cầu ái toan, và interleukin-13 góp phần vào sự tăng phản ứng đường thở và tái cấu trúc, biến dạng tế bào goblet và tăng tiết chất nhầy.

Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra sự tham gia của các tế bào lympho bẩm sinh (ILC2) hoặc viêm không thuộc type 2, được kích thích bởi sự tiếp xúc không dị ứng với các chất kích ứng, chất ô nhiễm, virus, v.v. Những tế bào này cũng sản xuất interleukin 5 và 13.

Yếu tố nguy cơ

Yếu tố nguy cơ dẫn đến kết quả xấu trong điều trị hen phế quản

Đánh giá các yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân khi chẩn đoán và định kỳ, đặc biệt nếu có các đợt cấp. Đo thể tích thở ra gắng sức trong 1 giây (FEV1) vào lúc bắt đầu điều trị và sau 3-6 tháng điều trị bằng thuốc kiểm soát.

Yếu tố nguy cơ dẫn đến đợt cấp

Các yếu tố nguy cơ gây đợt cấp của hen bao gồm:
  • Thuốc: sử dụng thường xuyên thuốc đồng vận beta-2 tác dụng ngắn, corticosteroid dạng hít không đủ (không được kê đơn hoặc không tuân thủ điều trị), thuốc chẹn beta, NSAID, kỹ thuật sử dụng ống hít sai
  • Tình trạng y tế: béo phì, bệnh trào ngược dạ dày thực quản, viêm mũi xoang mạn tính, dị ứng thực phẩm
  • Phơi nhiễm: dị nguyên, khói thuốc lá và thuốc lá điện tử, ô nhiễm không khí, sulfite
  • Chức năng phổi: FEV1 thấp (đặc biệt nếu <60% giá trị dự đoán), độ phục hồi sau khi dùng thuốc giãn phế quản cao
  • Xét nghiệm (ở bệnh nhân viêm type 2): bạch cầu ái toan trong máu, nồng độ nitric oxide thở ra (FENO) tăng cao
  • Vấn đề tâm lý hoặc kinh tế xã hội
  • Các yếu tố nguy cơ độc lập khác: tiền sử đặt nội khí quản hoặc nhập viện vào đơn vị chăm sóc đặc biệt do hen phế quản, ≥1 đợt cấp nghiêm trọng trong 12 tháng qua.
Yếu tố nguy cơ phát triển tình trạng hạn chế luồng khí thở kéo dài

Các yếu tố nguy cơ phát triển tình trạng hạn chế luồng khí thở kéo dài bao gồm:
  • Tiền sử: sinh non, cân nặng sơ sinh thấp và tăng cân nhanh ở trẻ sơ sinh, tăng tiết chất nhầy mạn tính
  • Thuốc: thiếu corticosteroid dạng hít trong điều trị bệnh nhân đã có đợt cấp nghiêm trọng
  • Phơi nhiễm: khói thuốc lá và thuốc lá điện tử, phơi nhiễm nghề nghiệp
  • Xét nghiệm: FEV1 ban đầu thấp, bạch cầu ái toan trong đờm hoặc máu
Các yếu tố nguy cơ gây tác dụng không mong muốn của thuốc

Các yếu tố nguy cơ gây tác dụng không mong muốn của thuốc bao gồm:
  • Toàn thân: sử dụng corticosteroid đường uống thường xuyên, sử dụng lâu dài corticosteroid dạng hít liều cao, dùng đồng thời các chất ức chế P450
  • Tại chỗ: corticosteroid dạng hít liều cao, kỹ thuật sử dụng ống hít không đúng

Phân loại

Phân loại theo kiểu hình hen (các nhóm đặc điểm hen phế quản) khác nhau về biểu hiện lâm sàng, sinh lý bệnh và vị trí nhân khẩu học của bệnh nhân.
  • Hen dị ứng: xuất hiện ở tuổi thơ, có tiền sử gia đình bị hen phế quản, và có tiền sử bệnh dị ứng trước đó như chàm, dị ứng thực phẩm, viêm mũi dị ứng, v.v.   
  • Hen không dị ứng: hen không có thành phần dị ứng   
  • Hen khởi phát muộn: còn gọi là hen khởi phát ở tuổi trưởng thành; xuất hiện và được chẩn đoán lần đầu tiên vào độ tuổi trưởng thành   
  • Hen với hạn chế luồng khí cố định: tái cấu trúc thành đường thở do viêm mạn tính đường thở gây tắc nghẽn luồng khí không thể hồi phục   
  • Hen liên quan đến béo phì: tỷ lệ mắc hen có triệu chứng tăng ở những người bị béo phì   
  • Hen biến thể ho và hen chủ yếu gây ho: ho có thể là triệu chứng ban đầu duy nhất của hen và bằng chứng về luồng khí biến đổi chỉ xuất hiện trong thử nghiệm kích thích phế quản, sau đó có thể phát triển tiếng khò khè và đáp ứng với thuốc giãn phế quản; đáp ứng tốt với điều trị có corticosteroid dạng hít.
Asthma_Disease Background 2Asthma_Disease Background 2


Dưới đây là phân loại hen theo mức độ nghiêm trọng, được đánh giá hồi cứu dựa trên mức độ điều trị cần thiết để kiểm soát các triệu chứng và đợt cấp (tức là khi bệnh nhân đã được điều trị kiểm soát trong vài tháng):   
  • Hen nhẹ: được kiểm soát tốt với điều trị bậc 1 hoặc bậc 2, mặc dù GINA 2022 đề xuất tránh sử dụng thuật ngữ này do quan niệm phổ biến rằng nó có rủi ro thấp. Tuy nhiên, nếu việc sử dụng thuật ngữ này là cần thiết về mặt lâm sàng, các bác sĩ lâm sàng phải được nhắc nhở rằng bệnh nhân có triệu chứng hen nhẹ vẫn có thể gặp các đợt cấp nghiêm trọng hoặc tử vong.   
  • Hen trung bình: được kiểm soát tốt với điều trị bậc 3 hoặc bậc 4   
  • Hen nặng: cần hoặc không kiểm soát được bằng corticosteroid dạng hít liều cao kết hợp với thuốc đồng vận beta-2 tác dụng kéo dài.