Content:
Giám sát
Nội dung của trang này:
Giám sát
Nội dung của trang này:
Giám sát
Giám sát
Tái phát tại chỗ
Nồng độ PSA ban đầu ≥0,2 ng/mL và các nồng độ tiếp theo ≥0,2 ng/mL biểu thị tái phát sinh hóa. Tái phát sinh hóa được phân loại thành một trong các loại sau:
Các khảo sát thực hiện khi theo dõi
Theo dõi PSA
Mức PSA phải thấp hơn đáng kể sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc, xạ trị, điều trị áp lạnh và các phương pháp điều trị khác. Theo dõi PSA phải được thực hiện mỗi 3-6 tháng trong 5 năm, sau đó là mỗi 6-12 tháng trong 5 năm, sau đó là hàng năm. Bệnh nhân không có triệu chứng không cần chụp hình ảnh thêm nếu PSA ổn định.
DRE
Thời điểm thực hiện DRE sau EBRT hoặc cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc để là mỗi năm hoặc nếu có bất kỳ nghi ngờ bệnh tái phát.
Xạ hình xương
Xạ hình xương có thể được thực hiện nếu có triệu chứng hoặc nồng độ PSA tăng sau điều trị tại chỗ. Nên thực hiện xạ hình xương mỗi 6-12 tháng để theo dõi ADT và mỗi 8-12 tuần đối với bệnh nhân CRPC. Đo mật độ xương bằng phương pháp quét hấp thụ tia X năng lượng kép (DEXA) nên được thực hiện thường xuyên, đặc biệt là ở những bệnh nhân có nguy cơ cao gặp tác dụng không mong muốn trên xương và để theo dõi đáp ứng điều trị với denosumab hoặc bisphosphonate.
Chụp CT hoặc MRI
Có thể cân nhắc chụp CT hoặc MRI nếu xảy ra các trường hợp dưới đây sau khi cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc:
Khuyến cáo chụp MRI cột sống để phát hiện chèn ép tủy sống ở bệnh nhân CRPC có di căn đốt sống và có các triệu chứng thần kinh. Đối với bệnh nhân không có bằng chứng di căn, có thể cần chụp PET/CT choline C-11, PET/MRI, PET/CT fluciclovine F-18 hoặc PET/MRI để đánh giá thêm về mô mềm và xương. Để đánh giá thêm về xương: PET/CT natri fluoride F-18 hoặc PET/MRI có thể được yêu cầu ở bệnh nhân không có bằng chứng di căn.
PET/CT scan và PET/MRI
Các phương thức hình ảnh này có độ nhạy và độ đặc hiệu tương đương với các phương thức hình ảnh khác được FDA chấp thuận trong phát hiện tái phát với nồng độ PSA thấp. Ngưỡng PSA của choline PET/CT là giữa 1-2 ng/mL và PSMA PET/CT là <1 ng/mL.
PET/CT scan hoặc PET/MRI có độ nhạy tốt trong việc tái đánh giá giai đoạn ung thư tuyến tiền liệt. PET/CT scan hoặc PET/MRI hữu ích trong việc xác định CRPC và dự đoán đáp ứng điều trị.
Điều trị cứu vớt
Các lựa chọn điều trị cứu vớt tại chỗ bao gồm cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc cứu vớt, HIFU, phẫu thuật lạnh và xạ trị trong. Điều trị cứu vớt được cân nhắc ở những bệnh nhân có ít bệnh đi kèm, ước lượng thời gian sống ít nhất 10 năm, nồng độ PSA trước khi điều trị cứu vớt <10 ng/mL, giai đoạn lâm sàng ban đầu có ISUP ≤3 của T1/T2 và không di căn đến hạch bạch huyết.
Xạ trị cứu vớt là một lựa chọn điều trị cho những bệnh nhân có nồng độ PSA tăng sau khi cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc và không có di căn xa. Nên áp dụng sau khi đã xác nhận có tái phát sinh hóa. Có thể cân nhắc liệu pháp hormone nếu PSA là 0,20 ng/mL sau phẫu thuật. Liều khuyến cáo cho xạ trị bổ trợ hoặc cứu vớt sau cắt bỏ tuyến tiền liệt là 64-72 Gy. Xạ trị áp sát cứu vớt (liều thấp vĩnh viễn hoặc liều cao tạm thời) có thể được cân nhắc ở những bệnh nhân đã xác nhận tái phát tại chỗ sau EBRT hoặc xạ trị áp sát.
Xạ trị cứu vớt ban đầu hoặc bổ trợ có thể được cân nhắc ở những bệnh nhân tái phát PSA sau cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc nếu không có di căn xa. Bệnh nhân bị ung thư tuyến tiền liệt có bướu T3 về mặt giải phẫu bệnh, diện cắt dương tính hoặc xâm lấn đến túi tinh có thể được xạ trị bổ trợ, thường được thực hiện trong vòng 1 năm sau cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc và sau khi hồi phục từ các tác dụng phụ của phẫu thuật. Bệnh nhân có PSA trước đây không phát hiện được nhưng trở nên phát hiện được qua hai lần đo hoặc có PSA liên tục phát hiện được sau cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc có thể được xạ trị cứu vớt.
IMRT hoặc VMAT cứu vớt sớm với IGRT có thể được sử dụng cho những bệnh nhân có 2 lần tái phát sinh hóa liên tiếp sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc. Phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc cứu vớt, HIFU hoặc phá hủy bướu bằng phẫu thuật lạnh có thể được sử dụng cho những bệnh nhân tái phát tại chỗ sau xạ trị hoặc áp lạnh. ADT cứu vớt đơn trị có thể được xem xét ở những bệnh nhân có bằng chứng hoặc nghi ngờ cao di căn, bệnh tại chỗ có triệu chứng hoặc tái phát sinh hóa với thời gian gấp đôi PSA ngắn. Phẫu thuật phá hủy u bằng áp lạnh cứu vớt có thể là một phương án thay thế cho phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc cứu vớt. HIFU cứu vớt có thể được sử dụng như một phương án thay thế cho ung thư tuyến tiền liệt tái phát sau xạ trị.
Chuyển viện
Giới thiệu bệnh nhân và gia đình đến các cơ sở có thể cung cấp các dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ, có thể hỗ trợ cả bệnh nhân và gia đình trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Chuyển đến các phòng khám điều trị đau hoặc nhóm chăm sóc giảm nhẹ cũng có thể giúp kiểm soát triệu chứng của bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt.
Prostate Cancer_Follow Up
Nồng độ PSA ban đầu ≥0,2 ng/mL và các nồng độ tiếp theo ≥0,2 ng/mL biểu thị tái phát sinh hóa. Tái phát sinh hóa được phân loại thành một trong các loại sau:
- Nồng độ PSA không giảm xuống mức không phát hiện được sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc (PSA dai dẳng)
- Nồng độ PSA không phát hiện được sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc nhưng có ≥2 kết quả xét nghiệm tiếp theo có nồng độ PSA phát hiện được hoặc tăng lên PSA >0,1 ng/mL (PSA tái phát)
- Nồng độ PSA dai dẳng hoặc thấp do chuyển hóa PSA chậm hoặc mô lành tính còn sót lại
Các khảo sát thực hiện khi theo dõi
Theo dõi PSA
Mức PSA phải thấp hơn đáng kể sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc, xạ trị, điều trị áp lạnh và các phương pháp điều trị khác. Theo dõi PSA phải được thực hiện mỗi 3-6 tháng trong 5 năm, sau đó là mỗi 6-12 tháng trong 5 năm, sau đó là hàng năm. Bệnh nhân không có triệu chứng không cần chụp hình ảnh thêm nếu PSA ổn định.
DRE
Thời điểm thực hiện DRE sau EBRT hoặc cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc để là mỗi năm hoặc nếu có bất kỳ nghi ngờ bệnh tái phát.
Xạ hình xương
Xạ hình xương có thể được thực hiện nếu có triệu chứng hoặc nồng độ PSA tăng sau điều trị tại chỗ. Nên thực hiện xạ hình xương mỗi 6-12 tháng để theo dõi ADT và mỗi 8-12 tuần đối với bệnh nhân CRPC. Đo mật độ xương bằng phương pháp quét hấp thụ tia X năng lượng kép (DEXA) nên được thực hiện thường xuyên, đặc biệt là ở những bệnh nhân có nguy cơ cao gặp tác dụng không mong muốn trên xương và để theo dõi đáp ứng điều trị với denosumab hoặc bisphosphonate.
Chụp CT hoặc MRI
Có thể cân nhắc chụp CT hoặc MRI nếu xảy ra các trường hợp dưới đây sau khi cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc:
- Nồng độ PSA vẫn có thể phát hiện được (PSA tồn tại dai dẳng)
- PSA trước đây không phát hiện được đột nhiên lại phát hiện được (PSA tái phát)
- PSA tăng được ghi nhận trong >2 lần khám
- PSA tăng hoặc DRE dương tính sau cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc
Khuyến cáo chụp MRI cột sống để phát hiện chèn ép tủy sống ở bệnh nhân CRPC có di căn đốt sống và có các triệu chứng thần kinh. Đối với bệnh nhân không có bằng chứng di căn, có thể cần chụp PET/CT choline C-11, PET/MRI, PET/CT fluciclovine F-18 hoặc PET/MRI để đánh giá thêm về mô mềm và xương. Để đánh giá thêm về xương: PET/CT natri fluoride F-18 hoặc PET/MRI có thể được yêu cầu ở bệnh nhân không có bằng chứng di căn.
PET/CT scan và PET/MRI
Các phương thức hình ảnh này có độ nhạy và độ đặc hiệu tương đương với các phương thức hình ảnh khác được FDA chấp thuận trong phát hiện tái phát với nồng độ PSA thấp. Ngưỡng PSA của choline PET/CT là giữa 1-2 ng/mL và PSMA PET/CT là <1 ng/mL.
PET/CT scan hoặc PET/MRI có độ nhạy tốt trong việc tái đánh giá giai đoạn ung thư tuyến tiền liệt. PET/CT scan hoặc PET/MRI hữu ích trong việc xác định CRPC và dự đoán đáp ứng điều trị.
Điều trị cứu vớt
Các lựa chọn điều trị cứu vớt tại chỗ bao gồm cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc cứu vớt, HIFU, phẫu thuật lạnh và xạ trị trong. Điều trị cứu vớt được cân nhắc ở những bệnh nhân có ít bệnh đi kèm, ước lượng thời gian sống ít nhất 10 năm, nồng độ PSA trước khi điều trị cứu vớt <10 ng/mL, giai đoạn lâm sàng ban đầu có ISUP ≤3 của T1/T2 và không di căn đến hạch bạch huyết.
Xạ trị cứu vớt là một lựa chọn điều trị cho những bệnh nhân có nồng độ PSA tăng sau khi cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc và không có di căn xa. Nên áp dụng sau khi đã xác nhận có tái phát sinh hóa. Có thể cân nhắc liệu pháp hormone nếu PSA là 0,20 ng/mL sau phẫu thuật. Liều khuyến cáo cho xạ trị bổ trợ hoặc cứu vớt sau cắt bỏ tuyến tiền liệt là 64-72 Gy. Xạ trị áp sát cứu vớt (liều thấp vĩnh viễn hoặc liều cao tạm thời) có thể được cân nhắc ở những bệnh nhân đã xác nhận tái phát tại chỗ sau EBRT hoặc xạ trị áp sát.
Xạ trị cứu vớt ban đầu hoặc bổ trợ có thể được cân nhắc ở những bệnh nhân tái phát PSA sau cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc nếu không có di căn xa. Bệnh nhân bị ung thư tuyến tiền liệt có bướu T3 về mặt giải phẫu bệnh, diện cắt dương tính hoặc xâm lấn đến túi tinh có thể được xạ trị bổ trợ, thường được thực hiện trong vòng 1 năm sau cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc và sau khi hồi phục từ các tác dụng phụ của phẫu thuật. Bệnh nhân có PSA trước đây không phát hiện được nhưng trở nên phát hiện được qua hai lần đo hoặc có PSA liên tục phát hiện được sau cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc có thể được xạ trị cứu vớt.
IMRT hoặc VMAT cứu vớt sớm với IGRT có thể được sử dụng cho những bệnh nhân có 2 lần tái phát sinh hóa liên tiếp sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc. Phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc cứu vớt, HIFU hoặc phá hủy bướu bằng phẫu thuật lạnh có thể được sử dụng cho những bệnh nhân tái phát tại chỗ sau xạ trị hoặc áp lạnh. ADT cứu vớt đơn trị có thể được xem xét ở những bệnh nhân có bằng chứng hoặc nghi ngờ cao di căn, bệnh tại chỗ có triệu chứng hoặc tái phát sinh hóa với thời gian gấp đôi PSA ngắn. Phẫu thuật phá hủy u bằng áp lạnh cứu vớt có thể là một phương án thay thế cho phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc cứu vớt. HIFU cứu vớt có thể được sử dụng như một phương án thay thế cho ung thư tuyến tiền liệt tái phát sau xạ trị.
Chuyển viện
Giới thiệu bệnh nhân và gia đình đến các cơ sở có thể cung cấp các dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ, có thể hỗ trợ cả bệnh nhân và gia đình trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Chuyển đến các phòng khám điều trị đau hoặc nhóm chăm sóc giảm nhẹ cũng có thể giúp kiểm soát triệu chứng của bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt.
