Content:
Theo dõi
Nội dung của trang này:
Theo dõi
Tiên lượng
Nội dung của trang này:
Theo dõi
Tiên lượng
Theo dõi
Để theo dõi độc tính thuốc, yêu cầu thực hiện các xét nghiệm: công thức máu toàn bộ (CBC), creatinine huyết thanh, chức năng gan, sàng lọc viêm gan B và C, khám mắt, sàng lọc lao tiềm ẩn (nếu dùng bDMARD, kèm theo chụp X-quang ngực). Nên theo dõi độc tính thuốc trước khi điều trị trở lại hoặc tăng liều DMARD do tiềm ẩn nguy cơ tác dụng không mong muốn nghiêm trọng. Theo dõi điều trị mỗi 2-4 tuần đối với liệu pháp điều trị VKDT <3 tháng và mỗi 8-12 tuần đối với liệu pháp 3-6 tháng.
Trước khi giảm liều điều trị, bệnh nhân phải có hoạt động bệnh mức nhẹ hoặc đạt lui bệnh ít nhất 6 tháng. Khuyến nghị nên giảm liều (giảm liều hoặc tăng khoảng cách liều) hơn là ngừng thuốc DMARD một cách từ từ cùng với đánh giá chặt chẽ bệnh nhân trong quá trình giảm liều. Bệnh nhân lui bệnh kéo dài trong 12 tháng có thể cân nhắc giảm liều bDMARD hoặc tsDMARD, đặc biệt khi kết hợp với csDMARD, sau khi đã giảm liều glucocorticoid. Giảm dần liều điều trị của csDMARD cũng có thể được cân nhắc sau khi ngừng điều trị bDMARD hoặc tsDMARD.
Nguy cơ bùng phát tỷ lệ nghịch với mức hoạt động bệnh và thời gian đáp ứng bền vững, do đó, để giảm nguy cơ bùng phát, nên giảm liều thận trọng và ngừng dần các liệu pháp sinh học. Do ngừng điều trị có liên quan đến nguy cơ bùng phát cao, có thể thực hiện giảm liều hoặc tăng khoảng cách liều một cách thận trọng với tất cả các bDMARD và tsDMARD có nguy cơ bùng phát thấp. Hầu hết bệnh nhân có bệnh bùng phát có thể đạt đáp ứng tốt như trước khi tái lập lại điều trị bằng cùng một liệu pháp bDMARD hoặc tsDMARD. Ngừng điều trị bằng csDMARD có liên quan đến tăng tần suất bùng phát, do đó nên giảm liều thận trọng và đánh giá nghiêm ngặt.
Hoạt động bệnh nên được đo lường và ghi nhận thường xuyên.
Theo dõi có thể được thực hiện theo khoảng thời gian sau:
Trước khi giảm liều điều trị, bệnh nhân phải có hoạt động bệnh mức nhẹ hoặc đạt lui bệnh ít nhất 6 tháng. Khuyến nghị nên giảm liều (giảm liều hoặc tăng khoảng cách liều) hơn là ngừng thuốc DMARD một cách từ từ cùng với đánh giá chặt chẽ bệnh nhân trong quá trình giảm liều. Bệnh nhân lui bệnh kéo dài trong 12 tháng có thể cân nhắc giảm liều bDMARD hoặc tsDMARD, đặc biệt khi kết hợp với csDMARD, sau khi đã giảm liều glucocorticoid. Giảm dần liều điều trị của csDMARD cũng có thể được cân nhắc sau khi ngừng điều trị bDMARD hoặc tsDMARD.
Nguy cơ bùng phát tỷ lệ nghịch với mức hoạt động bệnh và thời gian đáp ứng bền vững, do đó, để giảm nguy cơ bùng phát, nên giảm liều thận trọng và ngừng dần các liệu pháp sinh học. Do ngừng điều trị có liên quan đến nguy cơ bùng phát cao, có thể thực hiện giảm liều hoặc tăng khoảng cách liều một cách thận trọng với tất cả các bDMARD và tsDMARD có nguy cơ bùng phát thấp. Hầu hết bệnh nhân có bệnh bùng phát có thể đạt đáp ứng tốt như trước khi tái lập lại điều trị bằng cùng một liệu pháp bDMARD hoặc tsDMARD. Ngừng điều trị bằng csDMARD có liên quan đến tăng tần suất bùng phát, do đó nên giảm liều thận trọng và đánh giá nghiêm ngặt.
Hoạt động bệnh nên được đo lường và ghi nhận thường xuyên.
Theo dõi có thể được thực hiện theo khoảng thời gian sau:
- Hoạt động bệnh trung bình – mạnh: Mỗi tháng một lần
- Hoạt động bệnh mức độ nhẹ hoặc lui bệnh bền vững: Mỗi 6 tháng một lần
Tiên lượng
Các yếu tố tiên lượng kém ở bệnh nhân VKDT bao gồm số lượng khớp sưng nhiều, bằng chứng xói mòn sớm, sự hiện diện của yếu tố thấp khớp RF và/hoặc ACPA (đặc biệt ở nồng độ cao), nồng độ các chất phản ứng pha cấp cao, bệnh vẫn còn hoạt động trung bình hoặc mạnh vẫn tồn tại mặc dù đã điều trị bằng các thuốc csDMARD được xác định dựa trên tổng hợp nhiều chỉ số bao gồm số lượng khớp, thất bại điều trị với ≥2 csDMARD và các yếu tố khác như giới tính nữ, tuổi già, tiền sử hút thuốc và sự hiện diện của béo phì hoặc thiếu máu.