Đái tháo đường type 2: Thuốc ức chế SGLT2 giúp giảm tỷ lệ nhập ICU và tử vong do mọi nguyên nhân

26 Aug 2023 bởiNatalia Reoutova
Đái tháo đường type 2: Thuốc ức chế SGLT2 giúp giảm tỷ lệ nhập ICU và tử vong do mọi nguyên nhân

Một nghiên cứu quan sát hồi cứu trên khoảng 28.000 bệnh nhân đái tháo đường (BN ĐTĐ) type 2 ở Hồng Kông cho thấy, việc sử dụng thuốc ức chế kênh đồng vận chuyển natri-glucose 2 (SGLT2i) có liên quan độc lập đến việc giảm tỷ lệ nhập viện vào ICU và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân ở các phân loại bệnh khác nhau.

Theo các nghiên cứu viên: “Lợi ích của thuốc SGLT2i đối với việc giảm tỷ lệ kết cục bất lợi về tim và thận ở BN ĐTĐ type 2 đã được nhắc đến rõ ràng trong nhiều thử nghiệm ngẫu nhiên. [N Engl J Med 2015;373:2117-2128; N Engl J Med 2017;377:644-657; N Engl J Med 2019;380:347-357] “Mục tiêu của nghiên cứu hiện tại là xác định xem liệu thuốc SGLT2i có bất kỳ tác động nào đối với tổng thể gánh nặng bệnh hiểm nghèo hay không.”

Sau khi so khớp điểm xu hướng 1:2, các nghiên cứu viên đã so sánh nguy cơ và nguyên nhân nhập viện vào ICU, mức độ nghiêm trọng của bệnh và tỷ lệ tử vong liên quan đến việc sử dụng ngẫu nhiên thuốc SGLT2i (n=10.308) và thuốc ức chế dipeptidyl peptidase-4 (DPP-4i) (n=10.308) trong số các BN ĐTĐ type 2 với dữ liệu sẵn có trên Hệ thống báo cáo và phân tích dữ liệu lâm sàng của Hồng Kông. Tuổi trung bình của nhóm BN nghiên cứu là 59 ± 11 tuổi và 62,3% nam giới. Ngoài trừ một số thuốc điều trị ĐTĐ đường uống nhất định, tất cả các biến đều được cân bằng tốt giữa các nhóm với hệ số ảnh hưởng <0,1. Thời gian theo dõi trung vị là 2,9 năm. [Crit Care Med 2023;doi:10.1097/CCM.0000000000005869]

Nhóm dùng SGLT2i có tỷ lệ bệnh nghiêm trọng cần nhập ICU là 2,8% so với 3,7% ở nhóm dùng DPP-4i.

Các nghiên cứu viên báo cáo: “Nguy cơ nhập ICU thấp hơn ở nhóm dùng SGLT2i so với nhóm dùng DPP-4i [tỷ số nguy cơ (HR), 0,79; khoảng tin cậy 95 % (CI), 0,69–0,91; p=0,001], số bệnh nhân cần được điều trị để giảm một ca bệnh (number needed to treat – NNT) là 114”.

Nhóm dùng SGLT2i có mức độ nghiêm trọng bệnh khi nhập ICU thấp hơn nhóm dùng DPP-4i (nguy cơ tử vong ước tính trung vị, 0,08 [95% CI, 0,03–0,25] so với 0,14 [95% CI, 0,05–0,36]; p<0,001 ). Tuy nhóm dùng SGLT2i có nguy cơ nhập ICU (2,0% so với 2,8%; HR, 0,75; 95% CI, 0,64–0,89; p=0,001) và nhập ICU không phẫu thuật (1,5% so với 2,4%; HR, 0,66; 95% CI, 0,54–0,79; p<0,001) thấp hơn nhóm dùng DPP-4i, thời gian nằm ICU giữa 2 nhóm tương tự nhau. 

Nhóm dùng SGLT2i nhập viện vì nhiễm trùng huyết ít hơn so với nhóm dùng DPP-4i (0,4% so với 0,8%; HR, 0,61; 95% CI, 0,43–0,85; p=0,004). Các nghiên cứu viên nhận xét: “Việc giảm 40% số ca nhập ICU do nhiễm trùng huyết rất ấn tượng. Vì nhiễm trùng huyết chiếm tới 6% số ca nhập viện liên quan đến nhiễm trùng và 12% ca tử vong liên quan đến nhiễm trùng ở BN ĐTĐ, nếu kết quả này được xác nhận trong các thử nghiệm tiến cứu tiếp theo, đây là một kết quả có ý nghĩa quan trọng”. [Diabetes Care 2018;41:513-521]

Nhóm dùng SGLT2i và nhóm dùng DPP-4i có tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân lần lượt là 3,1% so với 7,5%. Nguy cơ tử vong ở nhóm dùng SGLT2-i thấp hơn nhóm dùng DPP-4i (HR, 0,44; 95% CI, 0,38–0,49; p<0,001), tương ứng với NNT là 22. Nhóm dùng SGLT2i cũng có nguy cơ tử vong do nhiễm trùng (0,6% so với 2,3%; HR, 0,26; 95% CI, 0,20–0,34; p<0,001), tim mạch (1,0% so với 1,9%; HR, 0,58; 95% CI, 0,46–0,72; p<0,001) hoặc thận (0,03% so với 0,14%; HR, 0,22; 95% CI, 0,07–0,73; p=0,014) thấp hơn nhóm DPP-4i.