Pembrolizumab kết hợp gemcitabine/cisplatin cải thiện sống còn ở bệnh nhân ung thư đường mật di căn

05 Sep 2023 bởiStephen Padilla
Pembrolizumab kết hợp gemcitabine/cisplatin cải thiện sống còn ở bệnh nhân ung thư đường mật di căn

Kết quả của nghiên cứu KEYNOTE-966 cho thấy, điều trị bằng pembrolizumab (pembro) kết hợp với gemcitabine và cisplatin (gem/cis) cải thiện thời gian sống thêm toàn bộ (OS) đáng kể về mặt thống kê và có ý nghĩa lâm sàng khi so sánh với giả dược kết hợp với gem/cis ở những bệnh nhân ung thư đường mật di căn (BTC) hoặc BTC không thể phẫu thuật cắt bỏ chưa được điều trị trước đó.

“Các đặc tính an toàn của pembro + gem/cis biểu hiện như dự đoán và có thể quản lý được,” Nhóm nghiên cứu viên được dẫn đầu bởi Robin Kate Kelley, Đại học California San Francisco (Mỹ) cho biết. “Những dữ liệu này giúp củng cố cho việc xem pembro + gem/cis như một lựa chọn điều trị đầu tay mới trong trường hợp này.”

Tại Hội nghị thường niên 2023 của Hiệp hội Nghiên cứu Ung thư Hoa Kỳ (AACR 2023) vừa qua, Kelley đã trình bày kết quả của KEYNOTE-966 - một thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, pha III so sánh pembro so với giả dược với vai trò liệu pháp đầu tay cho BTC tiến xa hoặc di căn cục bộ.

Thử nghiệm gồm 1.069 bệnh nhân mắc bệnh được xác nhận về mặt mô học, có thể đo lường RECIST v1.1, không điều trị với liệu pháp toàn thân nào trước đó, có tình trạng di căn hoặc không thể phẫu thuật cắt bỏ, được phân ngẫu nhiên để dùng pembro 200 mg (n=533) hoặc giả dược (n=536) tiêm tĩnh mạch ( IV) vào ngày 1 mỗi 3 tuần (Q3W) cho ≤35 chu kỳ được thêm vào gemcitabine 1.000 mg/m2 tiêm tĩnh mạch vào ngày 1 và ngày 8 Q3W cho đến khi bệnh tiến triển và cisplatin 25 mg/m2 tiêm IV vào ngày 1 và ngày 8 Q3W cho ≤8 chu kỳ.

Các nhà nghiên cứu phân tầng bệnh nhân theo khu vực (Châu Á, không phải Châu Á), giai đoạn (di căn tiến triển tại chỗ) và nguồn gốc khối u (túi mật trong gan ngoài gan).

Tiêu chí đánh giá chính là thời gian sống thêm toàn bộ (OS), thời gian sống thêm không bệnh tiến triển (PFS), tỷ lệ đáp ứng khách quan (ORR) và thời gian đáp ứng (DOR) trên mỗi RECIST v1.1 được đánh giá bởi một đơn vị trung tâm độc lập được làm mù, tiêu chí đánh giá phụ là là tính an toàn. Phân tích sau cùng về PFS và ORR là ở lần phân tích trung hạn đầu tiên, tất cả dữ liệu khác được lấy từ phân tích theo chỉ định sau cùng.

Các đặc điểm nền giữa các nhóm điều trị khá tương đồng. Trong số các bệnh nhân, 45,5% đến từ châu Á, 88,2% có tình trạng di căn và 59,2% có khối u nguồn gốc trong gan. Thời gian theo dõi trung vị là 25,6 tháng. [AACR 2023, abstract CT008]

OS trung vị ở kết quả phân tích sau cùng là 12,7 tháng đối với nhóm pembro kết hợp gem/cis và 10,9 tháng đối với nhóm giả dược kết hợp gem/cis (tỷ lệ rủi ro [HR], 0,83, khoảng tin cậy 95% [CI], 0,72‒0,95; p=0,0034), trong khi OS 24 tháng lần lượt là 24,9% so với 18,1%. Tỷ lệ OS nhất quán giữa các nhóm phụ.

Ở lần phân tích trung hạn đầu tiên, PFS trung vị là 6,5 tháng đối với nhóm pembro kết hợp gem/cis và 5,6 tháng đối với nhóm giả dược kết hợp gem/cis (HR, 0,86, 95% CI, 0,75‒1,00; p=0,0225), trong khi đó, PFS 12 tháng lần lượt là 25,4% và 19,8%. ORR ở nhóm pembro kết hợp gem/cis là 28,7% so với 28,5% nhóm giả dược kết hợp gem/cis (sự khác biệt, 0,2, KTC 95%, -5,2 đến 5,6; p=0,4735). Ngoài ra, DOR trung vị là 9,7 tháng ở nhóm pembro kết hợp gem/cis so với 6,9 tháng ở nhóm giả dược kết hợp gem/cis.

Các biến cố bất lợi cấp độ 3‒5 xảy ra ở 85,3% bệnh nhân ở nhóm pembro kết hợp gem/cis so với 84,1% bệnh nhân ở nhóm giả dược kết hợp gem/cis (liên quan đến thuốc: 71,3% so với 69,3%). Tỷ lệ mắc biến cố bất lợi cấp độ 5 lần lượt là 5,9% và 9,2% (liên quan đến thuốc: 1,5% so với 0,6%). Cuối cùng, các biến cố bất lợi có thể qua trung gian miễn dịch và phản ứng truyền dịch được ghi nhận là 22,1% so với 12,9%.