Phác đồ chu phẫu dựa trên durvalumab cải thiện kết cục ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có thể phẫu thuật được

30 Aug 2023 bởiAudrey Abella
Phác đồ chu phẫu dựa trên durvalumab cải thiện kết cục ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có thể phẫu thuật đư
Kết quả từ nghiên cứu AEGEAN cho thấy, ở những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có thể phẫu thuật được, thêm durvalumab chu phẫu vào hóa trị tân hỗ trợ cải thiện đáp ứng hoàn toàn về mặt mô bệnh học (pCR) và sống còn không biến cố (EFS).

Tại AACR 2023, Tiến sĩ John Heymach từ Trung tâm Ung thư MD Anderson - Đại học Texas (Mỹ) cho biết: “AEGEAN đã đạt được tiêu chí chính về đáp ứng mô bệnh học. Điều này được phản ánh bởi sự gia tăng đáng kể của pCR về mặt thống kê (17% so với 4%; p=0,000036) và đáp ứng đáng kể về mô bệnh học với durvalumab so với giả dược (33% so với 12%; p=0,000002).


Điều trị với durvalumab cũng giúp cải thiện EFS đáng kể so với giả dược (EFS trung vị không đạt được so với 25,9 tháng; tỷ số nguy cơ phân tầng [HR], 0,68; p=003902). Trung vị của thời gian theo dõi là 11,7 tháng. Sau 24 tháng, tỷ lệ EFS ở nhóm dùng durvalumab cao hơn so với nhóm dùng giả dược (63% so với 52%). [AACR 2023, tóm tắt CT005]


Hơn nữa, có lợi ích EFS rõ ràng và nhất quán với durvalumab so với giả dược bất kể thuốc platinum được lựa chọn sử dụng. Tỷ số nguy cơ (HR) tương ứng cho cisplatin và carboplatin lần lượt là 0,59 và 0,73. Lợi ích về pCR và EFS của durvalumab so với giả dược đã được quan sát trên các phân nhóm chính, với xu hướng có lợi hơn ở những người hiện đang hút thuốc lá (24% so với 4% [pCR] và HR, 0,48 [EFS]).


Nhóm durvalumab và giả dược  có tỷ lệ tương tự nhau về tác dụng phụ độ 3/4 (AEs; 42% so với 43%) và tác dụng phụ độ 3/4 có thể liên quan đến điều trị (32% so với 33%) bất kể nguyên nhân. Tỷ lệ tác dụng phụ qua trung gian miễn dịch ở mọi mức độ đều cao hơn khi dùng durvalumab so với giả dược (24% so với 10%), nhưng phần lớn là độ 1/2.


Phác đồ này có mức độ an toàn chấp nhận được và phù hợp với mức độ an toàn của durvalumab và hóa trị như đã biết. Heymach cho biết việc bổ sung durvalumab không ảnh hưởng đến việc hoàn thành hóa trị tân hỗ trợ hay phẫu thuật.


Trụ cột hiệu quả


Nghiên cứu bao gồm 802 bệnh nhân chưa từng điều trị (tuổi trung vị 65 tuổi, 72% là nam giới) mắc NSCLC có thể phẫu thuật (giai đoạn IIA–IIIB), tình trạng PD-L1 đã được xác định và không có đột biến EGFR/ALK được ghi nhận. Bệnh nhân được phân nhóm ngẫu nhiên 1:1 để nhận hóa trị phác đồ có platinum cộng với durvalumab 1.500 mg truyền tĩnh mạch hoặc giả dược mỗi 3 tuần trong bốn chu kỳ, sau đó là phẫu thuật. Họ tiếp tục dùng durvalumab hoặc giả dược mỗi 4 tuần (tối đa 12 chu kỳ) sau phẫu thuật.


Heymach lưu ý trong một thông cáo báo chí: “NSCLC vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư và trong quá khứ, khoảng một nửa số bệnh nhân đã được phẫu thuật cắt bỏ bướu bị tái phát. Bất cứ điều gì chúng ta làm để tăng tỷ lệ chữa khỏi cho những bệnh nhân này đều có thể là một bước tiến to lớn.”


Đối với NSCLC giai đoạn sớm, phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị chính với mục đích chữa khỏi bệnh. Heymach lưu ý: Đối với NSCLC có thể phẫu thuật, liệu pháp miễn dịch với ức chế PD-(L)1 trong điều trị tân hỗ trợ hoặc hỗ trợ đã cho thấy lợi ích. “Các phác đồ chu phẫu kết hợp hai phương pháp này có thể mang lại lợi ích bằng cách tạo ra miễn dịch chống bướu khi khối bướu vẫn còn tại chỗ và có các hạch bạch huyết dẫn lưu, và bằng cách cung cấp sự ức chế con đường PD1 bền vững sau phẫu thuật để có khả năng loại bỏ các di căn vi thể.”


Heymach cho biết AEGEAN đã chỉ ra rằng việc kết hợp liệu pháp miễn dịch chu phẫu vào hóa trị tân hỗ trợ là một phương pháp điều trị mới tiềm năng cho NSCLC có thể phẫu thuật được. “Nghiên cứu của chúng tôi đặt nền tảng cho việc thiết kế các phác đồ phối hợp mới dựa trên trụ cột hiệu quả này.”


Liệu AEGEAN có là điều trị tiêu chuẩn đối với NSCLC?


“Vẫn chưa,” tiến sĩ Roy Herbst từ Trường Y khoa Yale, New Haven, Connecticut, Hoa Kỳ nhấn mạnh. “Đó là ‘một’ tiêu chuẩn, nhưng không phải là điều trị tiêu chuẩn (SoC)."


Ông cho biết do thiếu sự so sánh với SoC hiện tại nên không thể xác định vai trò của các thành phần khác nhau. “Cần làm nhiều hơn để xác định và đánh giá tốt hơn các dấu ấn mô bệnh học về đáp ứng và liệu pháp trong tương lai. Cần có thêm thời gian hoàn thiện thử nghiệm để hiểu rõ hơn về lợi ích của liệu pháp hỗ trợ.”


Nghiên cứu đang được tiến hành để đánh giá các kết quả lâu dài hơn, bao gồm EFS, sống còn không bệnh và sống còn toàn bộ.