Ribociclib có thể có vai trò trong điều trị ung thư vú giai đoạn sớm

01 Sep 2023 bởiAudrey Abella
Ribociclib có thể có vai trò trong điều trị ung thư vú giai đoạn sớm
Trong phân tích tạm thời thứ hai về hiệu quả của thử nghiệm pha III NATALEE, phác đồ kết hợp bao gồm thuốc ức chế CDK4/6 ribociclib và liệu pháp nội tiết (ET) đã cho thấy các dấu hiệu tích cực trong điều trị hỗ trợ đối với bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm II/III có thụ thể nội tiết dương tính, HER2 âm tính (HR+, HER2–).

Trong bài báo cáo tại ASCO 2023, Tiến sĩ Dennis Slamon - Trường Y khoa UCLA David Geffen (Mỹ) chia sẻ: “Mục tiêu của điều trị ung thư vú giai đoạn sớm là chữa khỏi bệnh với hy vọng bệnh sẽ không tái phát."

Tuy nhiên, đối với bệnh ở giai đoạn II, 1/3 số bệnh nhân tái phát và đối với những người mắc bệnh giai đoạn III, hơn một nửa bị tái phát chỉ sau 2-3 thập kỷ, ông nói. “Và khi tái phát, bệnh thường ở giai đoạn tiến xa hơn, khi đó bệnh có thể đã không còn chữa khỏi được nữa. Do đó, điều quan trọng là ngăn ngừa tái phát để đạt được mục đích điều trị ban đầu tốt hơn.”

Slamon chia sẻ: “Ribociclib trong giai đoạn bệnh tiến xa đạt được lợi ích sống còn đáng kể. Vì vậy, chúng tôi đã thiết kế NATALEE để xem liệu có thể giải quyết vấn đề tái phát khi điều trị bệnh nhân ung thư vú HR+, HER2– giai đoạn sớm hay không.”

Nghiên cứu NATALEE bao gồm quần thể lớn nam giới và phụ nữ tiền hoặc hậu mãn kinh mắc ung thư vú giai đoạn IIA, IIB hoặc III HR+, HER2– có nguy cơ tái phát, bao gồm cả những người không có di căn hạch (n=5.101; tuổi trung vị 52). Những người tham gia nghiên cứu được phân nhóm ngẫu nhiên 1:1 để được điều trị với ribociclib (400 mg/ngày, uống 3 tuần, nghỉ 1 tuần) trong 3 năm phối hợp ET (letrozole 2.5 mg/day hoặc anastrozole 1 mg/day, ≥ 5 năm) hoặc đơn trị với ET. Nam giới và phụ nữ tiền mãn kinh cũng được dùng goserelin. [ASCO 2023, abstract LBA500]

Lợi ích sống còn không bệnh xâm lấn

Sau thời gian theo dõi trung vị 27,7 tháng, điều trị phối hợp ribociclib-ET giảm 25,2% nguy cơ mắc bệnh xâm lấn so với ET đơn trị (tỷ sớ nguy cơ [HR], 0,748), cho thấy lợi ích sống còn không bệnh xâm lấn (DFS) có ý nghĩa (p=0,0014).

“Dựa trên giá trị p này, Ủy ban giám sát dữ liệu độc lập (IDMC) kết luận rằng: các kết quả đáp ứng được các điều kiện để chứng minh hiệu quả vượt trội về mặt lâm sàng và có ý nghĩa thống kê. Điều này thực sự vượt xa những gì được xác định trong quy trình trước đó,” Slamon lưu ý.

Điều trị phối hợp với ribociclib-ET có tỷ lệ sống còn không bệnh xâm lấn trong 3 năm là 90,4% và con số này là 87,1% đối với ET đơn trị, với chênh lệch tuyệt đối 3,3%.

Bên cạnh đó, các phân nhóm liên quan về lâm sàng cũng ghi nhận lợi ích sống còn không bệnh xâm lấn tương tự.
“Tất cả đều đang đi đúng hướng. Hãy cùng xem kết quả khi các dữ liệu được hoàn thiện” Slamon lưu ý.

Các kết cục sống còn khác

Việc điều trị phối hợp ribociclib-ET so với ET đơn trị đã cho thấy sự nhất quán trong cải thiện lợi ích sống còn không bệnh xâm lấn (HR, 0,739; p=0,0017). Tỷ lệ sống còn không bệnh xâm lấn 3 năm lần lượt là 90,8% và 88,6% (Sai phân tuyệt đối 2,2%).

Sau thời gian theo dõi trung vị 30,4 tháng, các nhà nghiên cứu cũng ghi nhận được xu hướng cải thiện tỷ lệ sống còn toàn bộ (OS) (HR, 0,759; p=0,0563). Slamon nói: “Tuy nhiên, ghi nhận này còn chưa đủ chắc chắn và cần theo dõi thêm OS như đã dự định. Xét về số lượng các biến cố khi phối hợp ribociclib-ET so với ET đơn trị (n=61 so với 73) cho thấy mọi thứ đang đi đúng hướng, tuy nhiên kết quả này vẫn chưa đạt ý nghĩa thống kê."

Tính an toàn

“Để cải thiện khả năng dung nạp, chúng tôi đã đánh giá một mức liều khác với liều đã được phê duyệt cho bệnh tiến triển (600 mg)”, Slamon lưu ý. [www.accessdata.fda.gov/drugsatfda_docs/label/2019/209092s004lbl.pdf, truy cập 14/06/2023]. Ngoài ra, nhóm đã sử dụng thời gian điều trị 3 năm (trái với 2 năm trong các thử nghiệm khác) để kéo dài thời gian ngừng chu kỳ tế bào và đẩy nhiều tế bào khối u vào quá trình lão hóa không thể đảo ngược hơn.

Với liều ribociclib 400 mg, không có tác dụng phụ hoặc vấn đề an toàn mới nào được báo cáo. So với liều 600 mg trong các nghiên cứu tổng hợp MONALEESA, ribociclib 400 mg có tỷ lệ độc tính phụ thuộc liều như: kéo dài khoảng QTc (4,2% so với 6,5%) (độc tính này chỉ có ở ribociclib) và giảm bạch cầu trung tính (62% so với 74%) thấp hơn. [Br J Cancer 2021;125:679-686]
Hơn nữa, liều 400 mg có các biến cố kéo dài khoảng QTc độ ≥3 giảm sáu lần với so với liều 600 mg (0,2% so với 1,2%).

Biến cố bất lợi độ ≥3 (AE) phổ biến nhất với ribociclib-ET là giảm bạch cầu trung tính (44%). Tuy nhiên, đây là tác dụng phụ đã biết của ribociclib mà không có triệu chứng nhận biết. Các biến cố bất lợi ở mọi mức độ thường gặp nhất với ribociclib-ET dẫn đến ngừng sử dụng là tăng men gan (8,9%) và đau khớp (1,3%).

Những kết quả này cho thấy rằng thời gian điều trị kéo dài với liều ribociclib giảm (400 mg) có đặc tính an toàn thuận lợi hơn so với liều 600 mg đã được phê duyệt trong bệnh cảnh di căn trước đó.

Một lựa chọn điều trị mới cho ung thư vú giai đoạn sớm

“Với quần thể bệnh nhân lớn dễ xác định nguy cơ tái phát, khả năng dung nạp ribociclib và việc giảm nguy cơ tái phát có ý nghĩa lâm sàng được ghi nhận trong nghiên cứu này,...Đây là những kết quả mang tính bước ngoặt này có tác động động đến thực hành lâm sàng cơ bản và có thể giúp đơn giản hóa các quyết định khi điều trị bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm II/III,” Slamon cho biết trong một thông cáo báo chí.

Ông kết luận: “Do đó, kết quả của chúng tôi ủng hộ ribociclib-ET là một phương pháp điều trị mới được lựa chọn cho nhiều bệnh nhân mắc ung thư vú giai đoạn sớm II hoặc III HR+, HER2– có nguy cơ tái phát, bao gồm cả những bệnh nhân không có di căn hạch”.