Nội dung của trang này:
Nội dung của trang này:
Đánh giá
Tiêu chí quản lý tại nhà
Bệnh nhân có thể được theo dõi tại nhà nếu họ có khả năng uống đủ nước, đi tiểu đều đặn mỗi 6 giờ và không có dấu hiệu cảnh báo (như đau bụng hoặc đau khi ấn, nôn mửa kéo dài, tích tụ dịch lâm sàng, xuất huyết niêm mạc, mệt mỏi, kích động, gan to hơn 2 cm, tăng hematocrit đồng thời giảm tiểu cầu), đặc biệt trong giai đoạn giảm sốt.
Tiêu chí nhập viện
Tình trạng chung
Bệnh nhân cần nhập viện nếu có sốt liên tục ≥3 ngày, mệt mỏi, kích động, khó chịu, mệt lả, buồn ngủ; đỏ toàn thân; khó thở; và không có dấu hiệu cải thiện hoặc tình trạng ngày càng xấu đi.
Mất nước
Bệnh nhân không thể uống nước hoặc có nôn mửa hoặc tiêu chảy cần nhập viện.
Đau bụng
Bệnh nhân đau thượng vị hoặc gan to đau cần nhập viện.
Biểu hiện xuất huyết
Bệnh nhân có nghiệm pháp dây thắt dương tính, chấm xuất huyết, bầm máu hoặc ban xuất huyết, xuất huyết niêm mạc tự phát, chảy máu cam, xuất huyết tiêu hóa, rong kinh, tiểu ra máu, hoặc giảm tiểu cầu (số lượng tiểu cầu ≤100.000/mm3) cần nhập viện. Bệnh nhân đang xuất huyết bất kể số lượng tiểu cầu và bệnh nhân không có xu hướng chảy máu nhưng số lượng tiểu cầu đang giảm nhanh cũng cần nhập viện.Thoát huyết tương Bệnh nhân có hematocrit tăng nhanh, hematocrit ≥20% so với ban đầu, có dấu hiệu viêm màng (ví dụ như tràn dịch màng phổi, cổ trướng), hoặc nghi ngờ thoát huyết tương (nam có hematocrit >47% hoặc nữ có hematocrit >40%) cần nhập viện.
Suy tuần hoàn hoặc sốc
Bệnh nhân có mạch nhanh và yếu; áp lực mạch hẹp <20 mmHg; huyết áp thấp; da lạnh, loang lổ hoặc nhợt nhạt; tứ chi lạnh kèm tím quanh miệng; thay đổi ý thức, kích động, mệt mỏi; thiểu niệu; thở nhanh do nhiễm toan chuyển hóa; hoặc suy thận cấp cần nhập viện.
Tiêu chí điều trị cấp cứu
Điều trị cấp cứu cần được thực hiện nếu có thoát huyết tương nghiêm trọng có thể dẫn đến sốc và/hoặc tích tụ dịch gây suy hô hấp; xuất huyết nghiêm trọng; hoặc suy tạng nặng (ví dụ như tổn thương gan, suy thận, bệnh cơ tim, bệnh não, viêm não).
Các chỉ số lâm sàng dự báo xuất huyết
Dưới đây là các chỉ số lâm sàng dự báo xuất huyết:
- Huyết áp thấp
- Áp lực mạch hẹp dưới 20 mmHg
- Gan lách to hoặc gan to
- Giảm tiểu cầu nghiêm trọng (số lượng tiểu cầu <50.000/mm3)
- Giảm bạch cầu
- Tăng men ALT trong huyết thanh (>3 lần so với giá trị bình thường)
- Buồn nôn, đau bụng, kích động, tràn dịch màng, hoặc phát ban
Điều trị bằng thuốc
Thuốc hạ sốt và giảm đau
Ví dụ: paracetamol (acetaminophen), metamizole (dipyrone, noramidopyrine)
Các loại thuốc này giúp duy trì nhiệt độ cơ thể dưới 40oC và làm giảm đau nhức cơ thể. Chúng được chỉ định cho những bệnh nhân bị sốt cao, đặc biệt là những người có tiền sử co giật do sốt. Quan trọng là phải khuyến cáo bệnh nhân tránh sử dụng aspirin và các salicylate khác vì chúng có thể gây viêm dạ dày, xuất huyết và nhiễm toan. Khuyến cáo bệnh nhân tránh sử dụng thuốc kháng viêm không steroid (NSAID), vì ngoài việc có thể gây viêm dạ dày, xuất huyết đường tiêu hóa và nhiễm toan, loại thuốc này còn có tác dụng chống kết tập tiểu cầu.
Thuốc an thần
Có thể sử dụng thuốc an thần nhẹ cho những bệnh nhân bị đau dữ dội. Cần thiết để giữ bệnh nhân bình tĩnh, đặc biệt là trẻ em.
Điều trị không dùng thuốc
Điều trị hỗ trợ
Nên khuyến cáo người bệnh nghỉ ngơi trên giường trong giai đoạn sốt cấp tính của sốt xuất huyết. Có thể dùng khăn ấm lau mát để giữ nhiệt độ cơ thể dưới 40oC.
Khuyến cáo người bệnh duy trì chế độ ăn uống hợp lý và uống đủ nước để ngăn ngừa mất nước. Nước ép trái cây hoặc dung dịch bù điện giải được khuyến khích hơn so với nước lọc thông thường.
Nhấn mạnh sự cần thiết theo dõi các dấu hiệu mất nước và sự xuất hiện của các dấu hiệu cảnh báo (ví dụ như đau bụng dữ dội, nôn mửa kéo dài, phát ban da, chảy máu cam hoặc nướu răng, nôn ra máu, phân đen, buồn ngủ hoặc kích động, da tái nhợt hoặc lạnh, khó thở) và hướng dẫn người bệnh đến bệnh viện gần nhất ngay lập tức.
Khuyến cáo người bệnh tìm kiếm và loại bỏ các nơi muỗi đẻ trứng trong nhà.
Cần cung cấp đầy đủ oxy cho người bệnh bị sốc.
Liệu pháp truyền dịch
Truyền dịch tĩnh mạch
Liệu pháp truyền dịch là bắt buộc đối với những người bệnh bị mất thể tích nội mạch hoặc có ít nhất một dấu hiệu cảnh báo, và nhằm ngăn ngừa hoặc đảo ngược sốc do giảm thể tích.
Dung dịch tinh thể đẳng trương nên được sử dụng trong giai đoạn nguy hiểm. Các dung dịch keo có nồng độ cao (ví dụ như dextran 40 10% trong muối sinh lý, dung dịch tinh bột) có thể được chỉ định cho những người bệnh không đáp ứng với dung dịch tinh thể hoặc có sự thoát huyết tương nhiều. Thể tích và tốc độ truyền dịch tĩnh mạch nên được điều chỉnh theo lượng và tốc độ mất huyết tương. Đối với mất nước đẳng trương, dung dịch glucose 5% pha loãng theo tỷ lệ 1:1 hoặc 1:2 trong dung dịch muối sinh lý nên được sử dụng.
Dung dịch truyền tĩnh mạch sẽ được điều chỉnh trong suốt 24-48 giờ của giai đoạn rò rỉ bằng cách xác định liên tục nồng độ hematocrit và đánh giá thường xuyên các dấu hiệu sinh tồn và lượng nước tiểu để đảm bảo bù dịch đầy đủ và tránh tình trạng thừa nước. Lượng dịch bù nên là tối thiểu đủ để duy trì tuần hoàn hiệu quả trong giai đoạn rò rỉ huyết tương xảy ra trong giai đoạn hồi phục.
Truyền dịch quá mức và tiếp tục truyền sau khi quá trình rò rỉ kết thúc sẽ gây tràn dịch màng phổi, cổ trướng, và phù phổi hoặc sung huyết phổi nghiêm trọng kèm khó thở khi quá trình tái hấp thu huyết tương từ dịch ngoại bào xảy ra trong giai đoạn hồi phục. Nên áp dụng thời gian truyền dịch tĩnh mạch <60-72 giờ đối với người bệnh không bị sốc và <24-48 giờ đối với những người có sốc.
Dịch truyền để điều chỉnh mất nước do sốt cao, chán ăn và nôn mửa được tính toán dựa trên mức độ mất nước và mất điện giải, với thành phần như sau: 5% glucose trong ½ hoặc ⅓ dung dịch muối sinh lý.
Truyền dịch tĩnh mạch cũng có thể được thực hiện tại các cơ sở có thể tái bù nước cho bệnh nhân ngoại trú ở các trường hợp nhẹ hoặc trung bình, khi nôn mửa gây mất nước hoặc có nguy cơ gây nhiễm toan hoặc khi có hiện tượng cô đặc máu.
Huyết tương hoặc các chất thay thế huyết tương có thể được xem xét cho người bệnh vẫn còn sốc sau khi được hồi sức ban đầu bằng dịch.

Dung dịch bù nước đường uống (ORS)
Một ví dụ về dung dịch bù nước đường uống là dung dịch ORS của WHO (90 mmol Na/L) trong đó 1 L dung dịch chứa 3,5 g natri clorua (NaCl), 2,9 g trisodium citrate dihydrate, 1,5 g kali clorua (KCl), và 20 g glucose; uống theo tỷ lệ 2:1 dung dịch ORS của WHO pha với nước hoặc nước ép trái cây.
Nên uống nhiều nước vì sốt cao, chán ăn và nôn mửa gây khát nước và mất nước.
Lượng dung dịch bù nước đường uống được khuyến cáo dựa trên các chỉ số sau:
- Người lớn: Tối đa 3.000 mL/ngày
- Trẻ em: Công thức Holliday-Segar cộng thêm 5% (4 mL/kg/giờ cho 10 kg trọng lượng đầu tiên; 2 mL/kg/giờ cho 10 kg trọng lượng tiếp theo; 1 mL/kg/giờ cho mỗi kilogram trọng lượng cơ thể thêm)
Truyền máu
Tất cả người bệnh mắc sốt xuất huyết Dengue nặng nên được nhập viện tại các cơ sở có đơn vị chăm sóc đặc biệt và dịch vụ truyền máu.
Truyền máu chỉ nên thực hiện trong các trường hợp nghi ngờ hoặc có xuất huyết nghiêm trọng. Máu toàn phần tươi hoặc hồng cầu lắng tươi được ưu tiên. Có thể truyền 5-10 mL/kg hồng cầu lắng tươi hoặc 10-20 mL/kg máu toàn phần tươi. Điều quan trọng là theo dõi đáp ứng lâm sàng.
Giảm hematocrit kèm theo dấu hiệu sinh tồn không ổn định (ví dụ như nhịp tim nhanh, áp lực mạch hẹp, nhiễm toan chuyển hóa, tiểu ít) cho thấy xuất huyết nghiêm trọng và cần truyền máu khẩn cấp. Không nên đợi hematocrit giảm quá thấp trước khi bắt đầu truyền máu. Tuy nhiên, việc truyền máu cần cẩn thận do nguy cơ quá tải dịch.
Xem xét truyền máu lặp lại nếu có thêm mất máu hoặc hematocrit không tăng lên thích hợp sau khi truyền máu.
Hiện tại có ít bằng chứng ủng hộ việc sử dụng tiểu cầu đậm đặc và/hoặc huyết tương tươi đông lạnh trong trường hợp xuất huyết nặng.
Dự phòng
Vaccine sốt xuất huyết Dengue đầu tiên, CYD-TDV, được phát triển vào năm 2019, hiện có thể được xem xét cho những người có tiền sử đã xác nhận nhiễm sốt xuất huyết Dengue bằng xét nghiệm. Các vaccine khác hiện đang được phát triển.
Phương pháp kiểm soát muỗi
Các phương pháp kiểm soát sự lây truyền nên nhắm vào các nơi cư trú của muỗi Aedes aegypti ở cả giai đoạn ấu trùng và giai đoạn trưởng thành, ngay tại hộ gia đình và những nơi có tiếp xúc giữa người và muỗi. Loài muỗi này chủ yếu hoạt động trong phạm vi 100 mét xung quanh ổ, và hoạt động chủ yếu vào ban ngày.

Quản lý môi trường
Kiểm soát muỗi chủ yếu được thực hiện bằng cách loại bỏ môi trường sống của chúng, là các dụng cụ chứa nước nơi muỗi đẻ trứng và phát triển giai đoạn thủy sinh, thông qua việc ngăn cản sự tiếp xúc của muỗi với thùng chứa hoặc thường xuyên đổ và súc rửa chúng. Lưới chắn muỗi trên cửa sổ hoặc cửa ra vào, màn chống muỗi, và quần áo che kín tay chân có thể được sử dụng khi ngủ vào ban ngày để giảm thiểu tiếp xúc với muỗi.
Kiểm soát bằng hóa chất
Hóa chất diệt ấu trùng nên được sử dụng như một biện pháp bổ sung cho quản lý môi trường. Hóa chất diệt muỗi trưởng thành được sử dụng để tiêu diệt muỗi ở giai đoạn trưởng thành, có thể được áp dụng dưới dạng xử lý bề mặt hoặc xử lý không gian.
Biện pháp bảo vệ cá nhân và hộ gia đình được khuyến nghị để giảm thiểu phơi nhiễm da và tránh bị muỗi đốt trong thời gian hoạt động của chúng. Các loại thuốc chống muỗi có chứa DEET (N, N-diethyl-3-methylbenzamide), IR3535 (3-[N-acetyl-N-butyl]-aminopropionic acid ethyl ester), hoặc icaridin (1-piperidinecarboxylic acid-2-(2-hydroxyethyl)-1-methylpropylester) có thể được thoa lên da hoặc quần áo. Các loại thuốc chống muỗi chứa tinh dầu sả cũng có thể được xem xét. Lưới chống muỗi tẩm hóa chất diệt côn trùng, bình xịt diệt côn trùng hoặc nhang chống muỗi cũng có thể hữu ích.
Tiêm phòng
Vào tháng 5 năm 2019, CYD-TDV, một loại vaccine sống, giảm độc lực, tái tổ hợp, tứ giá để phòng chống sốt xuất huyết Dengue, đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt. Sau đó, vào tháng 6 năm 2021, Ủy ban Cố vấn về Thực hành Tiêm chủng Hoa Kỳ (ACIP) đã khuyến nghị sử dụng vaccine này để phòng ngừa sốt xuất huyết Dengue cho trẻ em từ 9 đến 16 tuổi có tiền sử nhiễm virus sốt xuất huyết Dengue đã được xác nhận bằng xét nghiệm và sống trong khu vực lưu hành bệnh.
Vaccine này có thể được sử dụng cho những người từ 9 đến 45 tuổi cư trú ở khu vực lưu hành bệnh với ít nhất một lần nhiễm virus sốt xuất huyết Dengue trước đó. Tính đến tháng 6 năm 2019, vaccine sốt xuất huyết Dengue đã được phê duyệt tại 20 quốc gia (ví dụ như Mexico, Brazil, Philippines), bao gồm Hoa Kỳ và châu Âu để phòng ngừa sốt xuất huyết Dengue.
Dữ liệu từ hai nghiên cứu lâm sàng pha III đã chỉ ra rằng CYD-TDV, khi được tiêm với lịch trình 3 liều vào 0/6/12 tháng, có hồ sơ an toàn tốt và phân tích thứ cấp cho thấy hiệu quả chống lại bốn loại huyết thanh của sốt xuất huyết Dengue, đồng thời giảm tỷ lệ bệnh nặng và tỷ lệ nhập viện.
Khuyến cáo nên thực hiện kiểm tra tiền tiêm phòng cho các quốc gia đang cân nhắc việc đưa phòng chống sốt xuất huyết Dengue vào chương trình tiêm chủng.
Các loại vaccine khác đang trong quá trình thử nghiệm lâm sàng bao gồm vaccine tiểu đơn vị, DNA, bất hoạt tinh khiết cũng như các loại vaccine sống giảm độc lực khác (ví dụ như TAK-003). Ngoài ra, các vaccine virus trung gian và vaccine dựa trên tiểu thể (VLP) cũng đang được nghiên cứu tiền lâm sàng.