Trầm cảm Xử trí

Cập nhật: 06 December 2024

Nội dung của trang này:

Nội dung của trang này:

Nguyên tắc điều trị

Mục tiêu điều trị bao gồm:

  • Giảm tất cả các dấu hiệu và triệu chứng trầm cảm, phục hồi chức năng (giai đoạn điều trị cấp tính)
  • Giảm nguy cơ tái phát bệnh và tái phát triệu chứng (giai đoạn điều trị tiếp theo)
  • Phòng ngừa xuất hiện đợt trầm cảm mới và tự sát (giai đoạn điều trị duy trì hoặc ổn định)
  • Giải quyết các triệu chứng còn lại (như mệt mỏi, suy giảm nhận thức, mất hứng thú, lo âu)
  • Phục hồi chức năng nghề nghiệp, tâm lý xã hội và giao tiếp

Việc lựa chọn liệu pháp điều trị dựa trên các yếu tố sau:

  • Mức độ nặng của triệu chứng (nhẹ, trung bình hoặc nặng)
  • Bệnh đi kèm hoặc các yếu tố căng thẳng tâm lý xã hội
  • Lựa chọn của bệnh nhân
  • Tiền sử điều trị trước đó

Trong điều trị trầm cảm, cần phải đưa ra các phương pháp điều trị tâm thần sẵn có. Nhiều phương pháp điều trị khác nhau có thể được sử dụng để điều trị giai đoạn trầm cảm cấp tính, bao gồm trị liệu tâm lý, điều trị bằng thuốc, điều trị bằng thuốc kết hợp với trị liệu tâm lý, liệu pháp kích thích thần kinh và giáo dục tâm lý cho bệnh nhân và gia đình bệnh nhân.

Chỉ dùng trị liệu tâm lý hoặc chỉ điều trị bằng thuốc

Trị liệu tâm lý hoặc điều trị bằng thuốc có thể được sử dụng đơn độc nếu bệnh nhân bị trầm cảm mức độ nhẹ đến trung bình. Các can thiệp tâm lý trị liệu có thể mang lại lợi ích cho bệnh nhân có các yếu tố căng thẳng tâm lý xã hội đáng kể, gặp khó khăn trong giao tiếp, v.v.

Trị liệu tâm lý kết hợp với điều trị bằng thuốc

Sự kết hợp các liệu pháp điều trị này có thể hữu ích cho bệnh nhân trầm cảm mức độ trung bình đến nặng và/hoặc bệnh nhân có các vấn đề về tâm lý xã hội, vấn đề trong giao tiếp hoặc rối loạn nhân cách. Có thể hữu ích cho bệnh nhân thất bại với liệu pháp đơn trị và có thể gặp vấn đề về tuân thủ điều trị.

Liệu pháp kích thích thần kinh

Liệu pháp kích thích thần kinh có thể được xem xét ở bệnh nhân suy giảm chức năng mức độ nặng và có các triệu chứng nghiêm trọng. Liệu pháp này có thể hữu ích ở bệnh nhân có triệu chứng loạn thần hoặc căng trương lực. Liệu pháp này cũng có thể được xem xét nếu có nhu cầu đáp ứng khẩn cấp (ví dụ như bệnh nhân từ chối thức ăn, suy dinh dưỡng, tự sát).

Điều trị bằng thuốc

Lưu ý rằng việc sử dụng thuốc chống trầm cảm có thể làm nặng thêm tình trạng trầm cảm và có thể làm tăng nguy cơ có ý tưởng và hành vi tự sát ở trẻ em.

Nguyên tắc điều trị

Khi bắt đầu điều trị bằng thuốc, phải nhớ rằng không có loại thuốc nào được chứng minh là hiệu quả hơn thuốc khác. Việc lựa chọn thuốc sẽ dựa trên hồ sơ tác dụng không mong muốn, tiền sử đáp ứng trước đó của bệnh nhân hoặc thành viên gia đình, lựa chọn của bệnh nhân, chi phí, bệnh đi kèm, các thuốc đang dùng và nguy cơ tử vong do quá liều. Bắt đầu với liều thấp, sau đó tăng dần đến đủ liều điều trị. Nếu xảy ra tác dụng không mong muốn, cách giải quyết ban đầu là giảm liều hoặc chuyển sang thuốc chống trầm cảm khác không gây ra tác dụng không mong muốn tương tự. Khuyến cáo tăng liều thuốc chống trầm cảm (như thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin [SSRI], thuốc ức chế tái hấp thu serotonin và norepinephrine [SNRI], thuốc điều hòa serotonin, thuốc chống trầm cảm bốn vòng và ba vòng) ở những bệnh nhân không cải thiện sau 2-4 tuần điều trị. Các triệu chứng cai thuốc (như chóng mặt, choáng váng, thay đổi giác quan, thay đổi cảm giác, bồn chồn, kích động, mất ngủ, đổ mồ hôi, đánh trống ngực, đau đầu, mệt mỏi) có thể xảy ra ở bệnh nhân ngừng thuốc đột ngột, bỏ liều hoặc không dùng đủ liều thuốc chống trầm cảm.

Thuốc bước đầu

Thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin (SSRI)

Như: citalopram, escitalopram, fluoxetine, fluvoxamine (cũng là chất đồng vận thụ thể sigma 1), paroxetine, sertraline

SSRI là lựa chọn ưu tiên cho trầm cảm do ít tác dụng không mong muốn hơn so với các thuốc chống trầm cảm thế hệ cũ (thuốc chống trầm cảm ba vòng [TCA] và thuốc ức chế monoamine oxidase [MAOI]). SSRI ức chế sự tái hấp thu serotonin và bình thường hóa sự mất cân bằng serotonergic. Các thuốc SSRI khác nhau ức chế tái hấp thu serotonin ở mức độ khác nhau. Thời gian khởi phát tác dụng của các thuốc SSRI thường là khoảng 2-4 tuần. Tuy nhiên, đối với escitalopram, thời gian khởi phát tác dụng là 1 tuần.

Thuốc ức chế tái hấp thu dopamine-norepinephrine (DNRI)

Như: bupropion

DNRI là lựa chọn thay thế cho bệnh nhân bị rối loạn chức năng tình dục khi dùng các thuốc chống trầm cảm khác. Thuốc ức chế sự tái hấp thu của dopamine và ức chế yếu sự tái hấp thu norepinephrine và dopamine. Thời gian khởi phát tác dụng của thuốc là 1-4 tuần.

Thuốc đồng vận thụ thể melatonin

Như: agomelatine

Agomelatine hoạt động như một chất đồng vận tại các thụ thể melatonin, có hiệu quả đối với rối loạn giấc ngủ bằng cách giúp khôi phục nhịp sinh học bình thường. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng thuốc có khả năng dung nạp tốt hơn SSRI hoặc venlafaxine.

Thuốc điều hòa serotonin đa mô thức

Như: vortioxetine

Vortioxetine ức chế sự tái hấp thu serotonin (5-HT) và có hoạt tính đồng vận tại thụ thể 5-HT1A và đồng thời có hoạt tính đối kháng tại thụ thể 5-HT3. Một nghiên cứu trên bệnh nhân lớn tuổi cho thấy vortioxetine có tác dụng đáng kể đến khả năng học tập qua ngôn từ, trí nhớ, tốc độ suy nghĩ và kiểm soát hành vi so với giả dược, trong khi các nghiên cứu đối với người trẻ tuổi hơn cho thấy tác dụng có lợi của vortioxetine đối với các chỉ số khách quan và chủ quan của chức năng nhận thức.

Thuốc chống trầm cảm noradrenergic và đặc hiệu serotonin (NaSSA)

Như: mirtazapine

Mirtazapine là một lựa chọn thay thế cho bệnh nhân không đáp ứng với thuốc chống trầm cảm ba vòng hoặc thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin. Thuốc này hữu ích cho bệnh nhân lo âu hoặc mất ngủ. Mirtazapine chẹn các thụ thể α2 adrenergic tiền synap dẫn đến tăng cường phóng thích noradrenaline và serotonin. Tăng cường dẫn truyền thần kinh serotonergic chủ yếu thông qua thụ thể 5-HT1 vì mirtazapine chẹn các thụ thể 5-HT2 và 5-HT3. Thời gian khởi phát tác dụng là 1-4 tuần.

Thuốc ức chế tái hấp thu noradrenaline (NRI)

Như: reboxetine

Reboxetine có tác dụng ức chế tái hấp thu norepinephrine, tác dụng yếu đối với tái hấp thu serotonin, nhưng không có tác dụng đáng kể lên các thụ thể muscarinic. Thời gian khởi phát tác dụng là 1-4 tuần.

Thuốc ức chế thuận nghịch monoamine oxidase type A (RIMA)

Như: moclobemide

Moclobemide ít có nguy cơ gây ra phản ứng tăng huyết áp do tương tác với thực phẩm vì ức chế chọn lọc, thuận nghịch. Thuốc đã được nghiên cứu ở bệnh nhân có kiểu hình trầm cảm theo mùa và rối loạn chức năng nhận thức nhưng cần thêm bằng chứng.

Thuốc tăng cường tái hấp thu chọn lọc serotonin (SRE)

Như: tianeptine

Tianeptine là lựa chọn cho bệnh nhân trầm cảm kèm theo lo âu. Thuốc làm tăng tái hấp thu serotonin tiền synap và có thể đảo ngược tình trạng suy giảm khả năng linh hoạt của cấu trúc não do trầm cảm. Một phân tích tổng hợp cho thấy tianeptine ít nhất cũng có hiệu quả tương tự như các thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin nhưng dung nạp tốt hơn.

Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin và norepinephrine (SNRI)

Như: desvenlafaxine, duloxetine, levomilnacipran, milnacipran, venlafaxine

SNRI ức chế sự tái hấp thu norepinephrine và serotonin, đồng thời ức chế yếu sự tái hấp thu dopamine. Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy thời gian điều trị kéo dài 8 tuần đã chứng minh hiệu quả của desvenlafaxine so với giả dược ở bệnh nhân trưởng thành được chẩn đoán trầm cảm. Các nghiên cứu liên quan đến duloxetine cho thấy thuốc có hiệu quả hơn giả dược trong điều trị trầm cảm. Một phân tích tổng hợp cho thấy venlafaxine dạng phóng thích kéo dài có thể mang lại tỷ lệ thuyên giảm cao hơn so với thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin sau 8 tuần điều trị. Venlafaxine là một lựa chọn cho bệnh nhân trầm cảm kèm lo âu. Phân tích gộp về levomilnacipran cho thấy hiệu quả trên đáp ứng điều trị và thuyên giảm. Thời gian khởi phát tác dụng của những thuốc này có thể ngắn tới 1 tuần.

Thuốc điều hòa serotonin

Như: nefazodone, trazodone, vilazodone

Những thuốc này là lựa chọn thay thế cho bệnh nhân rối loạn chức năng tình dục khi dùng các thuốc chống trầm cảm khác. Thuốc cũng hữu ích cho bệnh nhân lo âu hoặc mất ngủ. Thuốc điều hòa serotonin ức chế sự tái hấp thu serotonin tại các tế bào thần kinh tiền synap và đối kháng với các thụ thể 5-HT2 hậu synap. Hơn nữa, nefazodone còn ức chế sự tái hấp thu norepinephrine và chẹn các thụ thể α1. Thời gian khởi phát tác dụng là 2-4 tuần.

Thuốc bước hai

Thuốc ức chế không thuận nghịch, không chọn lọc monoamine oxidase (MAOI)

Như: selegiline

MAOI được xem là thuốc lựa chọn bước hai vì hồ sơ tác dụng không mong muốn và tương tác thuốc - thực phẩm làm hạn chế việc sử dụng thuốc này. Tuy nhiên, thuốc có thể đặc biệt hiệu quả ở bệnh nhân có các đặc điểm không điển hình (như tâm trạng phản ứng, các triệu chứng thần kinh thực vật bị đảo ngược, mất nhạy cảm) hoặc ở bệnh nhân không đáp ứng với các thuốc chống trầm cảm khác. Thời gian khởi phát tác dụng là 2-4 tuần.

Thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai (không điển hình)

Như: aripiprazole, brexpiprazole, olanzapine, quetiapine, risperidone

Một số nghiên cứu đã công bố ủng hộ việc sử dụng các thuốc chống loạn thần không điển hình để bổ trợ cho thuốc chống trầm cảm trong điều trị trầm cảm kháng trị. Thuốc chống loạn thần không điển hình có thể làm tăng tỷ lệ thuyên giảm các triệu chứng trầm cảm ở bệnh nhân không đáp ứng với >2 thuốc thử nghiệm, bao gồm bệnh nhân không có triệu chứng loạn thần. Các thuốc chống loạn thần không điển hình được xem xét sử dụng cho mục đích này gồm aripiprazole, brexpiprazole, olanzapine, quetiapine và risperidone.

Thuốc chống trầm cảm bốn vòng

Như: maprotiline, mianserin

Maprotiline ức chế sự tái hấp thu norepinephrine và có ái lực yếu với các thụ thể adrenergic trung ương. Mianserin chẹn các thụ thể α2 tiền synap, làm tăng sự luân chuyển norepinephrine trong não và đối kháng với các thụ thể serotonin ở não. Thuốc chống trầm cảm bốn vòng có tác dụng tương tự như thuốc chống trầm cảm ba vòng, ngoại trừ ít tác dụng không mong muốn muscarinic hơn (và mianserin ít tác dụng không mong muốn trên tim hơn) nhưng có tác dụng an thần rõ rệt.

Thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCA)

Như: amitriptyline, amoxapine, clomipramine, desipramine, dothiepine, doxepin, imirpamine, nortriptyline, protriptyline

Thuốc chống trầm cảm ba vòng ức chế tái hấp thu norepinephrine hệ thần kinh trung ương, một số thuốc còn ức chế tái hấp thu serotonin. Thuốc chống trầm cảm ba vòng cũng tác động lên thụ thể histamin và muscarinic dẫn đến các tác dụng không mong muốn. Các tác dụng không mong muốn và khả năng gây tử vong do sử dụng quá liều làm hạn chế việc sử dụng các thuốc này. Thời gian khởi phát tác dụng là 2-4 tuần.

Thuốc khác

Như: gepirone

Cơ chế của gepirone chưa được hiểu rõ nhưng được cho là có hoạt tính đồng vận chọn lọc với thụ thể 5-HT1A dẫn đến điều hòa serotonin trong hệ thần kinh trung ương. Thuốc được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (US FDA) phê duyệt gần đây để điều trị trầm cảm.

Depression_Management 3Depression_Management 3

Liệu pháp tăng cường

Liệu pháp tăng cường có thể được xem xét cho bệnh nhân đáp ứng một phần và bệnh nhân kháng trị. Thuốc chống trầm cảm có thể kết hợp với liệu pháp tâm lý tập trung vào trầm cảm, việc kết hợp này được xem như kế hoạch điều trị ban đầu hoặc như một phương pháp để giải quyết tình trạng không đáp ứng với chỉ một phương thức điều trị. Điều trị bằng thuốc chống trầm cảm cũng có thể được tăng cường bằng các thuốc chống trầm cảm không ức chế MAO hoặc với các thuốc không có tác dụng chống trầm cảm khác. Một lựa chọn là bổ sung thêm một thuốc chống trầm cảm không ức chế MAO thứ hai từ nhóm thuốc khác. Một lựa chọn khác là bổ sung thêm một thuốc không có tác dụng chống trầm cảm (như lithium, thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai [không điển hình]).

Benzodiazepine

Benzodiazepine có thể xem xét bổ sung cho bệnh nhân lo âu, trầm cảm hoặc mất ngủ. Không nên sử dụng thuốc này trong thời gian dài hơn 2-4 tuần để tránh phụ thuộc thuốc.

Lithium

Lithium là thuốc ổn định tâm trạng được sử dụng để tăng cường hiệu quả cho thuốc chống trầm cảm. Đây là thuốc được nghiên cứu rộng rãi nhất trong các thuốc điều trị bổ sung. Một số nghiên cứu có đối chứng với giả dược đã chứng minh bằng chứng tích cực về hiệu quả của lithium, trong khi các nghiên cứu lâm sàng cho thấy các thuốc ổn định tâm trạng làm tăng tác dụng của các thuốc chống trầm cảm khác. Có thể bắt đầu sử dụng khi trầm cảm không thuyên giảm khi đã dùng nhiều thuốc chống trầm cảm.

Hormone tuyến giáp

Hormone tuyến giáp có thể làm tăng hiệu quả của các thuốc chống trầm cảm, ngay cả ở bệnh nhân bình giáp. Liều dùng thông thường là triiodothyronine 25 mcg/ngày. Liều dùng có thể tăng lên 50 mcg/ngày sau một tuần nếu đáp ứng không hoàn toàn.

Điều trị kháng trị

Như: esketamine, ketamine

Esketamine là đồng phân đối quang S của hỗn hợp racemic ketamine, là một chất đối kháng thụ thể N-methyl-D-aspartate (NMDA). Những thuốc này được dùng cho bệnh nhân thất bại với ≥2 loại thuốc chống trầm cảm tiêu chuẩn hoặc có thể cải thiện một phần nhưng không thuyên giảm triệu chứng hoặc chức năng chưa phục hồi hoàn toàn. Dạng thuốc xịt mũi có thể được sử dụng để hỗ trợ cho thuốc chống trầm cảm đường uống ở bệnh nhân trầm cảm kháng trị.

Liệu pháp thay thế

St. John’s wort

St. John’s wort (cây ban Âu) là một lựa chọn thay thế cho bệnh nhân mà điều trị bằng thuốc hoặc tâm lý trị liệu không hiệu quả.

Điều trị không dùng thuốc

Chăm sóc hỗ trợ

Giáo dục bệnh nhân

Trong quá trình điều trị bệnh nhân trầm cảm, điều quan trọng là phải giáo dục bệnh nhân và các thành viên trong gia đình về bệnh lý này để phòng ngừa sự kỳ thị và đánh giá thấp mức độ nghiêm trọng của trầm cảm. Tư vấn về mục tiêu điều trị, các lựa chọn điều trị, trị liệu tâm lý, lựa chọn thuốc, tác dụng không mong muốn và thời gian để thấy hiệu quả điều trị.

Tập thể dục

Cần lưu ý tập thể dục thường xuyên, tập có kháng lực hoặc thể dục hiếu khí (aerobic), có thể hiệu quả trong việc làm giảm các triệu chứng, đặc biệt ở người lớn tuổi và người có bệnh đi kèm, miễn là không có chống chỉ định y khoa, trong đó yoga là hình thức tập luyện được khuyến cáo. Trẻ em và thanh thiếu niên được khuyến cáo tập khoảng 3-5 buổi mỗi tuần, mỗi buổi tập có cường độ trung bình, kéo dài 45-60 phút trong thời gian 10-12 tuần.

Châm cứu

Có thể xem xét là phương pháp bổ trợ cho thuốc chống trầm cảm trong điều trị trầm cảm mức độ nhẹ đến trung bình.

Tâm lý trị liệu

Là lựa chọn điều trị ban đầu cho trầm cảm mức độ nhẹ đến trung bình. Đây cũng là lựa chọn điều trị cho bệnh nhân mang thai hoặc mong muốn mang thai. Kiểu trị liệu và tần suất điều trị tối ưu nên được cá nhân hóa dựa trên các yếu tố như mục tiêu điều trị, mức độ nặng của triệu chứng, bệnh đi kèm, lựa chọn của bệnh nhân và liệu pháp sẵn có hay không. Tâm lý trị liệu cũng được chỉ định cho bệnh nhân đáp ứng một phần hoặc có vấn đề về tuân thủ khi dùng thuốc chống trầm cảm. Tâm lý trị liệu được kết hợp với thuốc chống trầm cảm ở bệnh nhân trầm cảm mức độ trung bình đến nặng.

Liệu pháp hành vi nhận thức (CBT)

Mục tiêu của liệu pháp là làm giảm các triệu chứng trầm cảm bằng cách thách thức những niềm tin phi lý và hình ảnh sai lệch về bản thân và đảo ngược những niềm tin và thái độ này. CBT được khuyến cáo cho bệnh nhân vẫn còn triệu chứng hoặc bệnh tái phát mặc dù đã điều trị bằng thuốc chống trầm cảm. Liệu pháp này có hiệu quả trong điều trị cả trầm cảm nặng và nhẹ.

Liệu pháp tương tác cá nhân (IPT)

Liệu pháp này hướng đến việc xác định yếu tố khởi phát hiện tại của đợt bệnh với mục tiêu giải quyết các vấn đề về mối quan hệ giữa người với người (như tranh chấp vai trò, cô lập xã hội, đau buồn kéo dài, chuyển đổi vai trò). Hiệu quả của IPT đã được chứng minh ở phụ nữ mang thai, phụ nữ sau sinh, thanh thiếu niên, người cao tuổi và có hiệu quả phòng ngừa tái phát.

Liệu pháp tâm động học

Liệu pháp tâm động học tập trung vào mối quan hệ giữa nhà trị liệu và bệnh nhân như một phương tiện để bộc lộ và giải quyết những khó khăn trong giao tiếp. Mục tiêu là xác định những xung đột tiềm ẩn trong mối quan hệ giữa các cá nhân trong quá khứ và hiện tại.

Depression_Management 2Depression_Management 2

Liệu pháp giải quyết vấn đề

Mục tiêu của liệu pháp giải quyết vấn đề là phát triển các hành vi phù hợp để giải quyết vấn đề. Liệu pháp này phù hợp với bệnh nhân trầm cảm nhẹ.

Liệu pháp hành vi biện chứng (DBT)

DBT bao gồm các buổi trị liệu cá nhân và trị liệu theo nhóm các kỹ năng DBT, nhằm tìm cách giữ cùng lúc các quan điểm đối lập bằng cách thúc đẩy sự cân bằng và tránh các lối tư duy tất cả hoặc không có gì. Ban đầu, liệu pháp này được phát triển để điều trị rối loạn nhân cách ranh giới nhưng nghiên cứu cho thấy hiệu quả ở bệnh nhân trầm cảm lớn tuổi. DBT là biện pháp can thiệp nhận thức-hành vi toàn diện, dựa trên bằng chứng.

Liệu pháp dành cho cặp đôi/vợ chồng và gia đình

Phương pháp này được xem xét cho bệnh nhân có căng thẳng đáng kể trong hôn nhân hoặc gia đình.

Depression_ManagementDepression_Management

Liệu pháp nhóm trị liệu

Hiện tại, chưa đủ dữ liệu về hiệu quả trong điều trị trầm cảm của liệu pháp nhóm trị liệu.

Liệu pháp kích thích thần kinh

Liệu pháp sốc điện (ECT)

ECT có tỷ lệ thành công cao nhất trong các phương pháp điều trị trầm cảm. Là lựa chọn điều trị cho rối loạn trầm cảm nặng không đáp ứng với liệu pháp dùng thuốc và/hoặc tâm lý trị liệu. Liệu pháp sốc điện cũng được khuyến cáo cho trầm cảm ở người cao tuổi, bệnh nhân có mức độ suy giảm chức năng nặng, các triệu chứng đe dọa tính mạng (như bệnh nhân có ý định tự sát) hoặc có các triệu chứng loạn thần, và cho bệnh nhân mong muốn điều trị bằng liệu pháp sốc điện hoặc đã có đáp ứng tích cực với liệu pháp sốc điện. Liệu pháp sốc điện chỉ nên được thực hiện bởi bác sĩ chuyên khoa có kinh nghiệm; thường được thực hiện 2-3 lần/tuần. Trong giai đoạn cấp tính, có 6-12 đợt điều trị, thường là <20 đợt. Toàn bộ liệu trình nên tối đa hóa theo việc thuyên giảm triệu chứng.

Kích thích từ trường xuyên sọ lặp lại (rTMS)

rTMS sử dụng xung từ trường để tạo ra kích thích điện lên các tế bào thần kinh bề mặt vỏ não. Phương pháp này được phê duyệt cho bệnh nhân rối loạn trầm cảm nặng không đáp ứng với ít nhất 1 phương pháp điều trị chống trầm cảm.

Kích thích não sâu (DBS)

DBS liên quan đến việc cấy điện cực dưới sự hướng dẫn của MRI vào các vùng não riêng biệt. Hiện tại, liệu pháp này đang được nghiên cứu như một lựa chọn điều trị cho rối loạn trầm cảm nặng kháng trị.

Kích thích dây thần kinh phế vị

Kích thích dây thần kinh phế vị là một phương pháp điều trị cho bệnh nhân bị trầm cảm không đáp ứng với thuốc và/hoặc liệu pháp sốc điện. Tuy nhiên, phương pháp này không được chỉ định trong điều trị giai đoạn cấp tính. Liệu pháp này có tiềm năng trong điều trị dài hạn đối với trầm cảm, nhưng vai trò vẫn còn là chủ đề gây tranh cãi.

Liệu pháp điều chỉnh nhịp sinh học

Liệu pháp ánh sáng

Liệu pháp ánh sáng đã được chứng minh hiệu quả điều trị với trầm cảm theo mùa bằng cách sử dụng ánh sáng. Liệu pháp này được sử dụng như liệu pháp tăng cường cùng với thuốc chống trầm cảm để điều trị chứng trầm cảm không theo mùa. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng 5 tuần điều trị với liệu pháp ánh sáng bổ trợ với thời gian điều chỉnh tăng dần mang lại hiệu quả thuyên giảm nhanh hơn và tỷ lệ thuyên giảm trầm cảm tích lũy cao hơn, đặc biệt là ở bệnh nhân trầm cảm có rối loạn nhịp sinh học. Liệu pháp ánh sáng có tác dụng thúc đẩy hiệu quả của thuốc chống trầm cảm.

Liệu pháp tỉnh thức (Thiếu ngủ)

Liệu pháp tỉnh thức được sử dụng để điều trị cho bệnh nhân trầm cảm mà không dùng thuốc chống trầm cảm. Liệu pháp này giúp tăng cường tác dụng của thuốc chống trầm cảm. Liệu pháp tỉnh thức được sử dụng như một phương pháp điều trị bổ trợ cho các dạng trầm cảm nặng hơn và kháng trị kết hợp với các liệu pháp nhịp sinh học khác.