Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính Tổng quan về bệnh

Cập nhật: 01 April 2025

Nội dung của trang này:

Nội dung của trang này:

Giới thiệu

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là một bệnh có thể phòng ngừa và điều trị được, với mức độ bệnh bị ảnh hưởng bởi các đợt cấp và các bệnh đồng mắc. Bệnh được nghi ngờ ở bất kỳ bệnh nhân nào có triệu chứng ho mạn tính hoặc tăng tiết đàm hoặc khó thở, có tiền sử nhiễm trùng đường hô hấp dưới tái phát, có hoặc không có tiền sử về các yếu tố nguy cơ của bệnh.

COPD được coi là một nhóm các tình trạng liên quan đến phổi, đặc trưng bởi các triệu chứng hô hấp mạn tính như khó thở, ho và có đàm, là hậu quả của các bất thường ở đường dẫn khí (ví dụ viêm phế quản, viêm tiểu phế quản) và/hoặc phế nang (ví dụ khí phế thũng), gây cản trở dòng khí lưu thông kéo dài và thường tiến triển.

Giới hạn đường dẫn khí dai dẳng thường tiến triển và liên quan đến đáp ứng viêm mạn tính của đường dẫn khí và phổi, được tăng cường bởi các phần tử hoặc khí độc hại. Sự hạn chế dòng khí mạn tính được gây ra bởi sự kết hợp giữa bệnh ở đường dẫn khí nhỏ và phá hủy nhu mô phổi.

Dịch tễ học

Tỷ lệ mắc COPD trên toàn cầu ước tính là 10,3% dựa trên nghiên cứu BOLD (Burden of Obstructive Lung Disease). Tỷ lệ mắc bệnh này cao hơn ở những người đã và đang hút thuốc, những người ≥40 tuổi, và là nam giới. Khoảng 3 triệu ca tử vong trên thế giới có thể liên quan đến COPD, tình trạng hút thuốc lá ngày càng gia tăng ở các nước có thu nhập thấp đến trung bình và dân số lão hóa ở các nước có thu nhập cao có thể làm tăng số ca tử vong do COPD và các bệnh có liên quan lên đến 5,4 triệu vào năm 2060. COPD được coi là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ ba trên toàn thế giới. Dựa trên Khảo sát dịch tễ học và ảnh hưởng của COPD (EPIC) tại châu Á, có tỷ lệ mắc bệnh cao ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Năm 2010, COPD được coi là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ hai ở Nam Á theo một báo cáo của Ngân hàng Thế giới. Theo Nghiên cứu về Hen suyễn, Triệu chứng hô hấp và Viêm phế quản mạn tính tại Ấn Độ (INSEARCH), tỷ lệ mắc viêm phế quản mạn tính là 3,5% trong số người lớn >35 tuổi. Một vài nghiên cứu tổng quan hệ thống tại Ấn Độ kết luận rằng tỷ lệ mắc COPD trong nước dao động từ 5,5% đến 7,4%.

Tỷ lệ mắc COPD tại Trung Quốc ước tính từ 4,4% đến 16,7%. Theo khảo sát quốc gia gần đây nhất của Trung Quốc, nước này chiếm gần 25% các trường hợp COPD trên toàn thế giới.

Tại Hồng Kông, Trung tâm Bảo vệ Sức khỏe báo cáo rằng trong giai đoạn 2014-2015, tỷ lệ mắc bệnh là 0,5% trên tổng số 29.900 người từ 15 tuổi trở lên. Bệnh cũng dẫn đến 30.000 lượt nhập viện và chiếm 2,7% tỷ lệ tử vong vào năm 2017, chủ yếu là ở những người từ 65 tuổi trở lên.

Tại Hàn Quốc, theo báo cáo của Học viện Lao và Bệnh hô hấp Hàn Quốc vào năm 2008, tỷ lệ mắc bệnh là 13%, con số này gần như tương đương với báo cáo của Khảo sát Sức khỏe và Dinh dưỡng Quốc gia Hàn Quốc (KNHANES) với tỷ lệ từ 13,1% đến 14,6% trong giai đoạn 2010-2015.

Ở Đông Nam Á, tỷ lệ mắc bệnh ở Malaysia là dưới 5%, ở Việt Nam là 7,1% đối với nam giới và 1,9% đối với nữ giới, ở Philippines là từ 3,5% đến 20,8%, và ở Thái Lan là từ 3,7% đến 6,8%. Singapore có tỷ lệ mắc bệnh tương tự như mức toàn cầu, cao nhất ở những người hút thuốc và người già, nhưng không có sự khác biệt về giới.

Sinh lý bệnh

COPD là hậu quả của các tương tác phức tạp, được tích lũy và là tác động giữa gen và môi trường, xảy ra trong suốt cuộc đời của một cá nhân, dẫn đến tổn thương phổi và/hoặc thay đổi sự phát triển bình thường của phổi hoặc quá trình lão hóa.

Tình trạng viêm và thay đổi cấu trúc làm tăng mức độ nghiêm trọng của tắc nghẽn đường dẫn khí. Số lượng tế bào viêm tăng lên (như đại thực bào ở các đường dẫn khí ngoại biên, nhu mô phổi và mạch máu phổi, bạch cầu trung tính và lympho được hoạt hóa) cùng với các tế bào biểu mô và các tế bào cấu trúc khác giải phóng nhiều chất trung gian gây viêm, thu hút các tế bào viêm từ tuần hoàn, dẫn đến sự khuếch đại quá trình viêm và gây ra những thay đổi cấu trúc. Viêm mạn tính dẫn đến thay đổi cấu trúc, thu hẹp đường dẫn khí nhỏ, xuất tiết trong lòng đường dẫn khí nhỏ và phá hủy nhu mô phổi, gây mất liên kết giữa phế nang với các đường dẫn khí nhỏ và giảm độ đàn hồi của phổi, từ đó làm giảm khả năng duy trì sự mở của các đường dẫn khí trong quá trình thở ra. COPD cũng có thể là thứ phát của stress oxy hóa.

Ngoài ra, các thay đổi cấu trúc có thể do sự mất cân bằng giữa enzyme protease (từ các tế bào viêm và tế bào biểu mô, chịu trách nhiệm phân hủy các thành phần mô liên kết) và kháng protease. Các thay đổi này bao gồm xơ hóa quanh phế quản và đục mô kẽ.

Những bất thường về cấu trúc này trong các đường dẫn khí, phế nang, và tuần hoàn phổi dẫn đến sự trao đổi khí tại phổi bất thường. Tình trạng viêm và thay đổi cấu trúc cũng có thể dẫn đến bẫy khí và căng giãn phổi quá mức. Căng giãn phổi quá mức xảy ra do mất độ đàn hồi và tắc nghẽn dòng khí thở ra.

Tắc nghẽn dòng khí là do bệnh đường dẫn khí nhỏ, làm tăng kháng lực đường dẫn khí và phá hủy nhu mô. Nó cũng có thể do mất các đường dẫn khí nhỏ. Phá hủy nhu mô thứ phát do khí phế thũng có thể gây giảm khả năng khuếch tán khí của phổi.

Yếu tố nguy cơ

Yếu tố của bệnh nhân

Một số người có thể bị giảm chức năng hô hấp tối đa của phổi do các quá trình trong thời kỳ mang thai và giai đoạn trẻ em, làm ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển của phổi.

Chức năng phổi giảm có thể liên quan đến tiền sử nhiễm trùng đường hô hấp nặng ở giai đoạn trẻ em. Tiền sử lao phổi cũng là một yếu tố nguy cơ đã biết đối với COPD.

Các yếu tố di truyền (như thiếu hụt alpha-1 antitrypsin) và các tình trạng di truyền khác cũng là yếu tố nguy cơ phát triển COPD.

Phản ứng quá mức của đường dẫn khí có thể tồn tại mà không cần chẩn đoán lâm sàng về hen phế quản và có thể cho thấy nguy cơ suy giảm chức năng phổi quá mức ở bệnh nhân COPD mức độ nhẹ. Trong các nghiên cứu dân số, phản ứng quá mức của đường dẫn khí đã được chứng minh là một yếu tố dự báo độc lập về COPD và tử vong do hô hấp. Phản ứng quá mức của đường dẫn khí có thể là một chỉ dấu về nguy cơ suy giảm chức năng phổi quá mức ở bệnh nhân COPD nhẹ.

Bệnh nhân bị viêm phế quản mạn tính cũng có nguy cơ dẫn đến COPD.

Phơi nhiễm

Khói thuốc lá là yếu tố nguy cơ phổ biến nhất gây COPD, bao gồm cả tiền sử hút thuốc hoặc phơi nhiễm kéo dài với khói thuốc thụ động. Hút thuốc trong thời kỳ mang thai có thể gây nguy cơ cho thai nhi.

Chronic Obstructive Pulmonary Disease_Disease BackgroundChronic Obstructive Pulmonary Disease_Disease Background


Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm phơi nhiễm với bụi và hóa chất do nghề nghiệp, ô nhiễm không khí, khói từ việc nấu ăn và sưởi ấm trong gia đình, tình trạng kinh tế xã hội thấp và điều kiện thời tiết khắc nghiệt (như sóng nhiệt, mùa đông khắc nghiệt).