Nội dung của trang này:
Nội dung của trang này:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Cúm mùa
Xét nghiệm có thể hữu ích trong việc chẩn đoán xác định cúm mùa. Độ nhạy của bất kỳ xét nghiệm nào sẽ phụ thuộc vào phòng thí nghiệm thực hiện xét nghiệm, loại mẫu được lấy và loại xét nghiệm được sử dụng.
Những người cần được xét nghiệm trong mùa cúm bao gồm:
- Bệnh nhân ngoại trú có sức đề kháng bình thường, ở mọi lứa tuổi, có nguy cơ cao bị biến chứng do cúm (ví dụ như nhập viện, tử vong), có các triệu chứng hô hấp cấp tính do sốt trong vòng 5 ngày kể từ khi khởi phát bệnh
- Bệnh nhân ngoại trú bị suy giảm miễn dịch, ở mọi lứa tuổi, có các triệu chứng hô hấp do sốt, bất kể thời gian phát bệnh
- Những người nhập viện ở mọi lứa tuổi (có hệ miễn dịch bình thường hoặc suy giảm miễn dịch) bị sốt và có các triệu chứng về đường hô hấp, bao gồm cả những người được chẩn đoán viêm phổi mắc phải trong cộng đồng (CAP), bất kể thời gian phát bệnh
- Người già và trẻ sơ sinh có biểu hiện nghi ngờ nhiễm trùng huyết hoặc sốt không rõ nguyên nhân, bất kể thời gian phát bệnh
- Trẻ em bị sốt và có các triệu chứng về hô hấp đến khám, bất kể thời gian phát bệnh
- Những người bị sốt và có triệu chứng hô hấp sau khi nhập viện, bất kể thời gian phát bệnh
- Những người có hệ miễn dịch bình thường, có các triệu chứng hô hấp cấp tính do sốt nhưng không có nguy cơ cao bị biến chứng thứ phát do nhiễm cúm có thể được xét nghiệm nhằm mục đích thu thập dữ liệu giám sát tại địa phương
Những người cần được xét nghiệm vào bất kỳ thời điểm nào trong năm bao gồm:
- Nhân viên y tế và cư dân hoặc khách đến thăm tại một cơ sở đang bùng phát dịch cúm, có các triệu chứng hô hấp do sốt trong vòng 5 ngày kể từ khi phát bệnh
- Những người có liên quan về mặt dịch tễ học với đợt bùng phát cúm (ví dụ: hộ gia đình và những người tiếp xúc gần với những người nghi ngờ bị cúm, những du khách trở về từ các quốc gia có thể đang lưu hành virus cúm, những người tham gia các cuộc tụ tập đông người quốc tế, hành khách trên tàu du lịch) trong vòng 5 ngày kể từ khi phát bệnh
Xét nghiệm sàng lọc miễn dịch huỳnh quang có thể là nhuộm kháng thể huỳnh quang trực tiếp (DFA) hoặc nhuộm kháng thể huỳnh quang gián tiếp (IFA) để phát hiện kháng nguyên cúm. Kết quả có trong vòng vài giờ sau khi nộp mẫu. Miễn dịch huỳnh quang có độ nhạy và độ đặc hiệu thấp hơn một chút so với nuôi cấy virus và phụ thuộc nhiều vào trình độ chuyên môn của phòng xét nghiệm và chất lượng mẫu thu thập được (tức là phải bao gồm các tế bào biểu mô đường hô hấp).
Test nhanh virus là xét nghiệm tại phòng khám phát hiện virus cúm A và B. Chúng có thể chẩn đoán cúm A và B trong vòng 10-20 phút và có thể giúp đưa ra quyết định quản lý lâm sàng và kiểm soát nhiễm trùng. Độ nhạy của các xét nghiệm này làm hạn chế việc sử dụng chúng trong mùa cúm trong cộng đồng. Nếu kết quả âm tính, có thể chỉ định nuôi cấy virus hoặc RT-PCR.
Phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (RT-PCR) là xét nghiệm được ưu tiên đối với các mẫu bệnh phẩm từ những người có tiền sử tiếp xúc với động vật có thể mắc bệnh cúm. Xét nghiệm này hữu ích để phân biệt nhanh giữa các loại và phân nhóm cúm. Xét nghiệm này nhạy hơn nuôi cấy virus tiêu chuẩn trong việc phát hiện cúm và có thể được sử dụng làm xét nghiệm xác nhận. Tuy nhiên, xét nghiệm này không được sử dụng rộng rãi trong lâm sàng và rất tốn kém. Kết quả dương tính không loại trừ nhiễm SARS-CoV-2 và ngược lại. Xét nghiệm phát hiện acid nucleic của SARS-CoV-2 được khuyến nghị, đặc biệt nếu nghi ngờ COVID-19 cao (ví dụ: tỷ lệ lưu hành SARS-CoV-2 trong cộng đồng cao hoặc gần đây tiếp xúc gần với người mắc COVID-19).
Nuôi cấy virus là xét nghiệm chính xác nhất; tuy nhiên, xét nghiệm này không thực tế vì liệu pháp kháng virus cần được áp dụng trong vòng 48 giờ sau khi xuất hiện triệu chứng. Kết quả nuôi cấy virus mất từ 2 đến 10 ngày và cũng có thể tốn kém. Xét nghiệm này có giá trị trong việc theo dõi khả năng kháng virus, xác định các chủng có khả năng gây ra đại dịch và xây dựng vaccine cho năm sau.
Cúm gia cầm
Các mẫu bệnh phẩm đối với bệnh nhân không thở máy bao gồm các mẫu từ họng và mũi, tốt nhất nên lấy trước khi điều trị bằng thuốc kháng virus. Đối với bệnh nhân thở máy cơ học, nên lấy các mẫu bệnh phẩm từ họng, khoang mũi, dịch rửa phế quản phế nang và dịch hút nội khí quản.
RT-PCR thông thường và real-time PCR là công cụ chính để chẩn đoán nhiễm virus H5N1 và H7N9 thông qua mẫu bệnh phẩm đường hô hấp, kết quả thường có trong vòng 5 giờ.
Miễn dịch huỳnh quang là phương pháp nhanh và nhạy để phát hiện trực tiếp sự hiện diện của kháng nguyên cúm gia cầm trong các mẫu lâm sàng. Nhuộm miễn dịch huỳnh quang dương tính đặc hiệu được đặc trưng bởi huỳnh quang màu xanh nội bào mạnh. Nó có độ nhạy 70-100% và độ đặc hiệu 80-100%. Đây là xét nghiệm được ưu tiên lựa chọn vì cho kết quả trong vòng chưa đầy 24 giờ.
Xét nghiệm ức chế ngưng kết hồng cầu (HAI) được sử dụng để phân loại kháng thể của bệnh nhân đối với virus cúm gia cầm khi có kháng nguyên cúm gia cầm chuẩn làm vật liệu tham chiếu. Xét nghiệm này dương tính nếu nồng độ kháng thể H5 tăng gấp bốn lần. Kết quả có sau khoảng 2 đến 3 ngày.
Xét nghiệm trung hòa vi mô là xét nghiệm nhạy và đặc hiệu để phát hiện kháng thể đặc hiệu với virus cúm gia cầm A (H5N1) trong huyết thanh người, và có khả năng phát hiện kháng thể với các phân nhóm virus cúm gia cầm khác. Xét nghiệm này dương tính nếu có sự gia tăng gấp bốn lần nồng độ kháng thể H5. Kết quả có sau khoảng 3 ngày.
Phát hiện nhanh các kháng nguyên virus được thiết kế để thực hiện trong điều kiện thực địa, tại điểm chăm sóc bệnh nhân hoặc tại giường bệnh bởi những người không được đào tạo về xét nghiệm. Xét nghiệm này phát hiện trực tiếp các tế bào bị nhiễm bệnh được thải ra trong mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân. Các test nhanh này mất từ 1 đến 2 giờ để có kết quả. Nó có độ nhạy hạn chế đối với việc phát hiện các trường hợp cúm gia cầm ở người và không được khuyến cáo thường quy để phát hiện cúm gia cầm.
Nuôi cấy virus là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán virus cúm gia cầm. Phương pháp này có độ nhạy và độ đặc hiệu là 100%. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ nên được thực hiện trong điều kiện phòng thí nghiệm an toàn sinh học cấp 3, thực hiện bởi nhân viên có kinh nghiệm, mặc phương tiện bảo hộ cá nhân phù hợp. Kết quả dương tính có sau vài ngày trong khi kết quả âm tính mất khoảng 10 đến 14 ngày.
WHO khuyến cáo các phòng xét nghiệm không có khả năng chẩn đoán virus cúm A nên gửi mẫu bệnh phẩm từ các trường hợp nghi ngờ mắc cúm A đến một trong các Trung tâm cộng tác về cúm của WHO.