Nội dung của trang này:
Nội dung của trang này:
Nguyên tắc điều trị
Việc điều trị ban đầu bệnh cúm ở người lớn dựa trên biểu hiện lâm sàng và dữ liệu dịch tễ học.
Cúm mùa*
Cúm mùa có thể biểu hiện như một bệnh hô hấp nhẹ, tương tự như cảm lạnh thông thường, hoặc có thể không có bất kỳ dấu hiệu và triệu chứng đặc trưng nào. Chẩn đoán dựa trên các triệu chứng điển hình có thể khó khăn vì các tác nhân gây bệnh khác cũng gây ra các triệu chứng tương tự (ví dụ bệnh do virus corona 2019 [COVID-19], virus hợp bào hô hấp, rhinovirus, virus á cúm). Chẩn đoán xác định cúm dễ dàng hơn khi biết rằng virus cúm đang có mặt trong cộng đồng.
Diễn tiến bệnh
Diễn tiến của bệnh cúm không biến chứng thường là tự khỏi ở hầu hết bệnh nhân sau 3 đến 7 ngày. Ho và khó chịu có thể kéo dài hơn 2 tuần.
*Vui lòng xem Nguyên nhân Và Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán để biết thêm thông tin.
Cúm gia cầm*
Trong giai đoạn đầu của bệnh do nhiễm cúm gia cầm, khám lâm sàng không giúp phân biệt chính xác với các nguyên nhân khác gây viêm phổi mắc phải trong cộng đồng, bệnh giống cúm, viêm dạ dày ruột cấp tính hoặc viêm não cấp tính.
Diễn tiến bệnh
Diễn tiến của cúm gia cầm thường là viêm phổi tiến triển nhanh kèm suy hô hấp kéo dài trong nhiều ngày. Cần phải chăm sóc tại bệnh viện trong giai đoạn đầu. Thời gian ủ bệnh đối với nhiễm H5N1 và H7N9 ở người sau khi tiếp xúc với gia cầm bị nhiễm bệnh là ≤7 ngày và thường là 2-5 ngày.
Phân tầng nguy cơ
Nhóm phơi nhiễm có nguy cơ cao hiện được định nghĩa là những người sống chung nhà hoặc những thành viên gia đình tiếp xúc gần với bệnh nhân H5N1 (nghi ngờ hoặc đã được xác nhận mắc bệnh) do có khả năng cùng tiếp xúc với nguồn gia cầm, môi trường chung hoặc ca bệnh chỉ điểm.
Các nhóm phơi nhiễm có nguy cơ trung bình hiện được định nghĩa là nhân viên xử lý động vật bị bệnh hoặc khử trùng môi trường bị ảnh hưởng (bao gồm cả việc tiêu hủy động vật) nếu không sử dụng đúng cách thiết bị bảo vệ cá nhân. Những người không được bảo vệ và tiếp xúc trực tiếp rất gần với động vật bị bệnh hoặc đã chết do nhiễm virus H5N1 hoặc với các loài chim cụ thể có liên quan trực tiếp đến các trường hợp mắc bệnh ở người, cũng được coi là nhóm tiếp xúc có nguy cơ trung bình. Nhân viên y tế tiếp xúc gần với bệnh nhân nghi ngờ hoặc đã xác nhận nhiễm H5N1 (đặt nội khí quản hoặc hút khí quản, cung cấp thuốc dạng khí dung hoặc xử lý dịch cơ thể chưa được sàng lọc hoặc niêm phong đầy đủ) mà không có hoặc không đủ thiết bị bảo vệ cá nhân cũng thuộc nhóm này. Ngoài ra, nhân viên phòng xét nghiệm có thể tiếp xúc không được bảo vệ với các mẫu có chứa virus cũng thuộc nhóm nguy cơ trung bình.
Nhóm tiếp xúc có nguy cơ thấp hiện được định nghĩa là nhân viên y tế không tiếp xúc gần (khoảng cách >1 m) với bệnh nhân nghi ngờ hoặc đã xác nhận mắc cúm gia cầm và không tiếp xúc trực tiếp với vật liệu truyền nhiễm từ bệnh nhân đó. Nhân viên y tế sử dụng thiết bị bảo vệ cá nhân thích hợp khi tiếp xúc với bệnh nhân bị nhiễm bệnh, nhân viên tham gia tiêu hủy quần thể động vật không bị nhiễm bệnh hoặc có khả năng không bị nhiễm bệnh và nhân viên xử lý động vật bị bệnh hoặc khử trùng môi trường bị ảnh hưởng (bao gồm cả việc tiêu hủy động vật) và sử dụng thiết bị bảo vệ cá nhân phù hợp cũng được coi là nhóm tiếp xúc có nguy cơ thấp.
*Vui lòng xem Nguyên nhân Và Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán để biết thêm thông tin.
Điều trị bằng thuốc
Các triệu chứng như sốt và đau cơ có thể được điều trị bằng thuốc giảm đau (không opioid) và thuốc hạ sốt (ví dụ paracetamol). Tránh dùng salicylate ở trẻ em ≤18 tuổi vì nguy cơ mắc hội chứng Reye. Ho và cảm lạnh có thể được điều trị bằng các chế phẩm trị ho và cảm (ví dụ thuốc long đờm, thuốc tiêu nhầy).
Thuốc kháng virus cho bệnh cúm mùa
Phòng ngừa
Các thuốc kháng virus (ví dụ baloxavir marboxil, oseltamivir, zanamivir) có thể được sử dụng để ngăn ngừa sự lây lan của bệnh cúm. Đối tượng phòng ngừa là các thành viên trong gia đình có nguy cơ cao, chưa được tiêm vaccine, dùng trong vòng 48 giờ sau khi tiếp xúc với người bị cúm và trong thời gian bùng phát cúm tại cơ sở y tế.
Có thể sử dụng cho những người không thể tiêm vaccine do chống chỉ định với vaccine và chỉ dùng trong thời gian có dịch cúm. Chúng cũng có thể được sử dụng cho những người có nguy cơ cao bị biến chứng, đã được tiêm vaccine sau khi bùng phát cúm. Tuy nhiên, nên tiêm cách 2 giờ kể từ ngày tiêm vaccine để có đủ thời gian hình thành miễn dịch.
Điều trị
Điều trị kháng virus theo kinh nghiệm nên được bắt đầu càng sớm càng tốt. Đặc biệt đối với tất cả bệnh nhân nghi ngờ mắc cúm có bệnh tiến triển, biến chứng hoặc nghiêm trọng, đang nhập viện hoặc có nguy cơ cao gặp biến chứng cúm, bất kể thời gian mắc bệnh và thậm chí không có kết quả xét nghiệm virus cúm. Khi được sử dụng trong vòng 48 giờ sau khi khởi phát, thuốc kháng virus có thể làm giảm thời gian của các triệu chứng và giảm nguy cơ biến chứng của cúm. Không nên sử dụng thuốc này nếu không chắc chắn về chẩn đoán hoặc nếu không thể loại trừ nhiễm trùng do vi khuẩn. Liều lượng và thời gian điều trị kháng virus tối ưu nên được cá nhân hóa theo tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. Nên kéo dài liều oseltamivir uống hoặc peramivir tiêm tĩnh mạch hàng ngày cho bệnh nhân nhập viện có cúm diễn tiến nặng sau 5 ngày điều trị. Có thể cần kéo dài thời gian điều trị ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch hoặc bệnh nhân bệnh nặng kèm suy hô hấp, là những người mà thời gian nhân lên của virus cúm có thể bị kéo dài.
Baloxavir marboxil
Baloxavir marboxil là loại thuốc đầu tiên được chấp thuận, nhắm mục tiêu là protein polymerase acidic (PA) đặc hiệu của virus cúm. Thuốc được dùng để điều trị cúm mùa cấp tính không biến chứng (virus týp A và B) ở những bệnh nhân ≥12 tuổi, có các triệu chứng trong không quá 48 giờ và nguy cơ cao xảy ra các biến chứng do cúm. Nó cũng có thể được sử dụng như một tác nhân dự phòng sau phơi nhiễm, dùng đơn liều ở trẻ em ≥12 tuổi. Dựa trên một số nghiên cứu, một liều baloxavir marboxil duy nhất có hiệu quả tương đương với liệu trình điều trị bằng oseltamivir mỗi ngày 2 lần trong 5 ngày.
Chất ức chế M2
Ví dụ: amantadine, rimantadine
Chất ức chế M2 có tác dụng chống lại virus cúm A, nhưng không chống lại virus cúm B. Khả năng đề kháng cao với nhóm adamantane vẫn tiếp diễn ở virus cúm A (H3N2) và virus cúm A (H1N1) pdm09. Do đó, amantadine và rimantadine không được khuyến cáo để điều trị và dự phòng các chủng virus cúm A đang lưu hành.
Hiệu quả điều trị của nó rõ ràng khi được sử dụng trong vòng 48 giờ sau khi phát bệnh ở những người lớn khỏe mạnh vì nó có thể rút ngắn thời gian mắc bệnh cúm không biến chứng. Cả hai loại thuốc đều có hiệu quả 70-90% trong việc ngăn ngừa bệnh do cúm A. Chúng ngăn ngừa cúm đồng thời để virus chuyển sang thể ngủ và phát triển kháng thể bảo vệ. Ngoài ra, liệu pháp này không can thiệp vào đáp ứng kháng thể đối với vaccine.
Tỷ lệ tác dụng không mong muốn ở hệ thần kinh trung ương cao hơn ở những người dùng amantadine so với rimantadine.
Chất ức chế neuraminidase
Ví dụ: oseltamivir, peramivir, zanamivir
Oseltamivir dạng uống và zanamivir dạng hít được sử dụng để điều trị và dự phòng nhiễm virus cúm A hoặc B. Khuyến cáo dùng oseltamivir (uống hoặc dùng qua đường tiêu hóa) cho bệnh nhân nằm viện, những người mắc bệnh tiến triển, biến chứng hoặc nghiêm trọng không phải nằm viện và những người có nguy cơ cao bị biến chứng do cúm. Peramivir tiêm tĩnh mạch được sử dụng để điều trị virus cúm A và B, đặc biệt đối với những người không dung nạp thuốc uống và oseltamivir dùng qua đường tiêu hóa. Không khuyến cáo điều trị kết hợp với thuốc ức chế neuraminidase.
Trong điều trị, chúng có thể rút ngắn khoảng 1 ngày thời gian mắc cúm A và B không biến chứng so với giả dược khi sử dụng trong vòng 2 ngày kể từ khi phát bệnh. Cả hai loại thuốc đều có hiệu quả, 82% đối với oseltamivir và 84% đối với zanamivir, trong việc ngăn ngừa sốt, bệnh cúm được xác nhận trong phòng thí nghiệm ở những người khỏe mạnh. Là một phương pháp hóa dự phòng, kinh nghiệm sử dụng của thuốc này trong việc ngăn ngừa sự lây lan của cúm trong các cơ sở còn hạn chế khi so sánh với thuốc ức chế M2.
Thuốc kháng virus cho bệnh cúm gia cầm
Phòng ngừa
Ở những khu vực không có thuốc ức chế neuraminidase, có thể dùng amantadine hoặc rimantadine để phòng ngừa, nếu dữ liệu giám sát tại địa phương cho thấy virus được biết là có hoặc có khả năng nhạy cảm với những loại thuốc này, ở nhóm phơi nhiễm có nguy cơ cao hoặc trung bình. Ở nhóm phơi nhiễm có nguy cơ thấp, không nên dùng amantadine và rimantadine để phòng ngừa. Ở phụ nữ mang thai, cũng không nên dùng amantadine và rimantadine để phòng ngừa bằng thuốc. Ở người cao tuổi, người bị suy giảm chức năng thận và những người đang dùng thuốc tâm thần kinh, hoặc rối loạn tâm thần kinh hoặc co giật, không nên dùng amantadine để phòng ngừa bằng thuốc.
Điều trị
Nên bắt đầu điều trị bằng thuốc ức chế neuraminidase càng sớm càng tốt trong quá trình điều trị lâm sàng. Dữ liệu về hiệu quả của các loại thuốc kháng virus này đối với nhiễm trùng H5N1 còn hạn chế.
Oseltamivir
Oseltamivir là thuốc kháng virus chính được lựa chọn để điều trị nhiễm virus cúm A (H5N1) và A (H7N9). Ở những người nhiễm cúm gia cầm đã khỏi bệnh, virus có thể nuôi cấy thường biến mất trong vòng 2 đến 3 ngày sau khi dùng oseltamivir, mặc dù đã có báo cáo những ca tiến triển trên lâm sàng. Thời gian điều trị trung bình là 5 ngày nhưng có thể kéo dài đến 10 ngày nếu không có cải thiện lâm sàng.
Các chất ức chế neuraminidase khác
Ví dụ: peramivir, zanamivir
Peramivir và zanamivir có hoạt tính cao trong in vitro và trên mô hình động vật, bao gồm cả những mô hình gây ra bởi virus cúm A (H5N1) kháng oseltamivir.
Zanamivir hít qua đường miệng có khả năng hấp thụ toàn thân thấp và có thể không hữu ích nếu đã xảy ra tình trạng phát tán ngoài phổi. Có thể dùng zanamivir tiêm tĩnh mạch cho bệnh nhân nội trú nghi ngờ hoặc đã khẳng định kháng với oseltamivir và peramivir. Đơn trị liệu zanamivir có liên quan đến sự xuất hiện nhanh chóng của kháng thuốc.
Chúng có thể được sử dụng như một lựa chọn điều trị không theo chỉ định ở những bệnh nhân được xác nhận hoặc nghi ngờ nhiễm trùng nếu không có oseltamivir, đặc biệt nếu virus đã biết hoặc có khả năng nhạy với thuốc.
Chất ức chế M2
Ví dụ: amantadine, rimantadine
Điều trị sớm bằng amantadine cho những bệnh nhân bị nhiễm virus cúm A (H5N1) nhạy cảm với adamantane ở Hồng Kông năm 1997 có thể liên quan đến lợi ích lâm sàng. Chúng không được khuyến cáo cho những bệnh nhân bị nhiễm virus cúm gia cầm A (H7N9) và chỉ nên cân nhắc trong trường hợp cúm H5N1 như một lựa chọn điều trị nếu điều trị thất bại sau khi dùng thuốc ức chế neuraminidase.

Liệu pháp kết hợp
Sự kết hợp của oseltamivir và chất ức chế M2 đã tăng cường hoạt tính kháng virus và hạn chế tình trạng kháng thuốc. Nó cho thấy hiệu quả kháng virus lớn hơn và tăng khả năng sống sót so với đơn trị liệu trên mô hình động vật. Ở những khu vực có sẵn thuốc ức chế neuraminidase, với những nhóm phơi nhiễm nguy cơ cao, bao gồm phụ nữ mang thai, oseltamivir nên được dùng như phòng ngừa bằng thuốc liên tục trong 7-10 ngày sau lần tiếp xúc cuối cùng. Zanamivir có thể được sử dụng theo cách tương tự như một phương pháp thay thế. Ở những nhóm phơi nhiễm có nguy cơ trung bình, bao gồm phụ nữ mang thai, oseltamivir có thể được dùng như phòng ngừa bằng thuốc liên tục trong 7-10 ngày sau lần tiếp xúc cuối cùng. Zanamivir có thể được sử dụng theo cách tương tự. Ở những nhóm tiếp xúc có nguy cơ thấp và phụ nữ mang thai, không nên dùng oseltamivir hoặc zanamivir để phòng ngừa bằng thuốc. Amantadine hoặc rimantadine cũng không nên dùng để phòng ngừa bằng thuốc.
Điều trị không dùng thuốc
Bệnh nhân nên đeo khẩu trang ở nơi công cộng, che mũi và miệng khi ho hoặc hắt hơi và rửa tay thường xuyên. Để hỗ trợ cho sự phục hồi, bệnh nhân cần uống đủ nước để tránh mất nước và cung cấp dinh dưỡng đầy đủ. Khuyến cáo bệnh nhân ngừng hút thuốc nếu cần.
Liệu pháp hỗ trợ cho bệnh nhân nằm viện
Liệu pháp oxy (O2)
Cung cấp oxy bằng mask thay vì ống thông mũi. Mục tiêu là duy trì áp suất riêng phần của oxy trong động mạch (PaO2) >80 mmHg và độ bão hòa oxy (SaO2) >90% (95% đối với phụ nữ mang thai).
Liệu pháp oxy liên tục được chỉ định cho những bệnh nhân có PaO2 <80 mmHg, hạ huyết áp, nhiễm toan chuyển hóa với bicarbonate <18 mmol/L hoặc suy hô hấp với nhịp thở >24 nhịp/phút.
Cần thận trọng với việc sử dụng máy phun khí dung và mặt nạ oxy cao áp, do khả năng làm lây lan hội chứng hô hấp cấp tính nặng trong bệnh viện. Chỉ sử dụng các biện pháp này nếu hợp lý về mặt lâm sàng và áp dụng trong điều kiện kiểm soát nhiễm khuẩn nghiêm ngặt, bao gồm các biện pháp phòng ngừa lây truyền qua không khí.
Bù dịch và dinh dưỡng
Điều quan trọng là phải đánh giá tình trạng mất thể tích ở bệnh nhân cúm và cân nhắc truyền dịch tĩnh mạch (IV) nếu cần thiết. Bệnh nhân nằm viện trong thời gian dài có thể cần tăng cường hỗ trợ dinh dưỡng (đường tiêu hóa, đường tiêm).
Phòng ngừa
Vaccine phòng cúm
Những khuyến nghị sau đây chỉ áp dụng cho bệnh cúm mùa; vaccine phòng ngừa cúm gia cầm vẫn đang được phát triển.
Vaccine là biện pháp phòng ngừa chính chống lại bệnh cúm, làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do cúm. Điều này rất quan trọng trong việc giảm tác động của các bệnh hô hấp liên quan đến cúm và gánh nặng từ đó đối với hệ thống chăm sóc sức khỏe trong đại dịch COVID-19. Vaccine được sử dụng phải tuân thủ các khuyến nghị hiện hành của WHO.
Nên tiêm vaccine phòng cúm hàng năm cho những người ≥6 tháng tuổi không có chống chỉ định với bất kỳ thành phần nào của vaccine. Nên tiêm vaccine cúm bất hoạt (IIV), vaccine cúm tái tổ hợp (RIV) hoặc vaccine cúm sống giảm độc lực (LAIV) phù hợp theo độ tuổi.
Các nhóm dân số đặc biệt có thể được tiêm vaccine cúm bao gồm những người có tiền sử dị ứng trứng nhưng chỉ nổi mề đay sau khi tiếp xúc, những người có tiền sử dị ứng trứng với biểu hiện khác ngoài nổi mề đay (như phù mạch, chóng mặt, nôn tái phát, suy hô hấp và những người cần dùng epinephrine hoặc can thiệp y tế khẩn cấp khác), và phụ nữ mang thai bao gồm cả những người muốn mang thai.
Tiêm vaccine nên được thực hiện ở những nơi có sẵn nhân viên y tế và thiết bị cần thiết để nhanh chóng nhận biết và xử trí các phản ứng quá mẫn cấp tính. Phản ứng phản vệ nghiêm trọng là chống chỉ định tiêm vaccine cúm ở bất kỳ dạng bào chế nào. Tiền sử phản ứng phản vệ nghiêm trọng với bất kỳ loại vaccine IIV, RIV hoặc LAIV nào có nguồn gốc từ trứng là một dấu hiệu đề phòng khi sử dụng vaccine IIV có nguồn gốc từ tế bào. Ngoài ra, tiền sử phản ứng dị ứng nghiêm trọng với bất kỳ loại vaccine IIV có nguồn gốc từ trứng, IIV có nguồn gốc từ tế bào hoặc LAIV nào là dấu hiệu đề phòng khi sử dụng vaccine RIV4.
Những du khách muốn giảm nguy cơ mắc bệnh cúm có thể tiêm vaccine cúm ít nhất 2 tuần trước khi khởi hành. Tiền sử tiêm vaccine cúm không loại trừ khả năng nhiễm virus cúm ở bệnh nhân có các dấu hiệu và triệu chứng gợi ý mắc bệnh cúm. Có thể tiêm bất kỳ loại IIV4 hoặc RIV4 nào cho những người đang dùng thuốc kháng virus để điều trị hoặc phòng ngừa cúm.
Thành phần
Đối với mùa cúm ở bán cầu bắc 2024/2025, vaccine tam giá nuôi cấy từ trứng được khuyến nghị nên chứa một loại virus chủng A/Victoria/4897/2022 (H1N1)pdm09, một loại virus chủng A/Thailand/8/2022 (H3N2) và một loại virus chủng B/Austria/1359417/2021 (dòng B/Victoria). Vaccine tứ giá sẽ chứa ba loại virus đã đề cập, cộng với một loại virus chủng B/Phuket/3073/2013 (dòng B/Yamagata).
Đối với mùa cúm ở bán cầu bắc 2024/2025, vaccine tam giá nuôi cấy tế bào hoặc tái tổ hợp được khuyến nghị phải chứa một loại virus chủng A/Wisconsin/67/2022 (H1N1)pdm09, một loại virus chủng A/Massachusetts/18/2022 (H3N2) và một loại virus chủng B/Austria/1359417/2021 (dòng B/Victoria). Vaccine tứ giá sẽ chứa ba loại virus đã đề cập, cộng với một loại virus chủng B/Phuket/3073/2013 (dòng B/Yamagata).
Đối với mùa cúm ở bán cầu nam năm 2024, vaccine tam giá nuôi cấy từ trứng được khuyến nghị nên chứa một loại virus chủng A/Victoria/4897/2022 (H1N1)pdm09, một loại virus chủng A/Thailand/8/2022 (H3N2) và một loại virus chủng B/Austria/1359417/2021 (dòng B/Victoria). Vaccine tứ giá sẽ chứa ba loại virus đã đề cập, cộng với một loại virus chủng B/Phuket/3073/2013 (dòng B/Yamagata).
Đối với mùa cúm ở bán cầu nam năm 2024, vaccine tam giá nuôi cấy tế bào hoặc tái tổ hợp được khuyến nghị nên chứa một loại virus chủng A/Wisconsin/67/2022 (H1N1)pdm09, một loại virus chủng A/Massachusetts/18/2022 (H3N2) và một loại virus chủng B/Austria/1359417/2021 (dòng B/Victoria). Vaccine tứ giá sẽ chứa ba loại virus đã đề cập, cộng với một loại virus chủng B/Phuket/3073/2013 (dòng B/Yamagata).
LAIV4 là một lựa chọn cho bệnh nhân ≥2-49 tuổi, không có chống chỉ định (ví dụ như cắt lách và suy giảm chức năng lách, rò dịch não tủy, cấy ghép ốc tai).
Vaccine cúm tam giá
Vaccine cúm tam giá chứa hai chủng cúm týp A và một chủng cúm týp B. Các mũi tiêm tam giá liều chuẩn (IIV3) được sản xuất bằng cách sử dụng trứng nuôi cấy virus và được khuyến nghị cho những người từ 18 đến 64 tuổi. Mũi tiêm tam giá liều cao được chấp thuận cho những người ≥65 tuổi. Mũi tiêm tam giá có tá dược cũng được chấp thuận cho những người ≥65 tuổi.
Vaccine cúm tứ giá
Vaccine cúm tứ giá chứa hai chủng cúm týp A và hai chủng cúm týp B. Liều tiêm trong da được chấp thuận cho những người từ 18-64 tuổi. Vaccine tứ giá bất hoạt liều cao (HD-IIV4), vaccine tứ giá tái tổ hợp (RIV4) và vaccine tứ giá bất hoạt có tá dược (aIIV4) được khuyến nghị cho những bệnh nhân ≥65 tuổi. Ủy ban Thường trực về Tiêm chủng (STIKO) 2023 khuyến nghị dùng HD-IIV4 cho những bệnh nhân ≥60 tuổi. Việc sử dụng vaccine cúm liều cao thay vì vaccine cúm liều chuẩn được khuyến nghị cho những bệnh nhân ≥65 tuổi. Vaccine cúm tứ giá dùng virus được nuôi cấy tế bào được khuyến nghị cho trẻ em ≥4 tuổi.
Dùng đồng thời với các loại vaccine khác
IIV và RIV4 có thể được tiêm đồng thời hoặc tuần tự với các loại vaccine bất hoạt hoặc vaccine sống khác. LAIV4 có thể được tiêm đồng thời với các loại vaccine bất hoạt hoặc vaccine sống khác. Đối với các loại vaccine sống được tiêm tuần tự, khuyến cáo nên tiêm cách nhau ít nhất 4 tuần. Các hướng dẫn hiện tại chỉ ra rằng vaccine COVID-19 có thể được tiêm cùng với vaccine cúm.
Vaccine cúm bất hoạt (IIV)
IIV được tiêm bắp và chứa virus đã chết hoặc bất hoạt; do đó không thể gây ra bệnh cúm. Nó được cấp phép sử dụng cho những người từ 6 tháng tuổi trở lên, bao gồm cả những người khỏe mạnh và những người mắc bệnh mạn tính.
Về mặt tác dụng, nếu vaccine được sử dụng chứa các chủng cúm lưu hành chủ yếu, nó có thể có hiệu quả 70-90% trong việc ngăn ngừa bệnh tật ở người lớn khỏe mạnh dưới 65 tuổi. Nó có hiệu quả khoảng 50-77% khi các chủng của vaccine có tính kháng nguyên khác với phần lớn các chủng lưu hành.
Bệnh nhân có các bệnh lý đồng thời có thể giảm tỷ lệ mắc bệnh hô hấp nặng và tử vong (lên đến 50%). Lợi ích chính của việc tiêm vaccine ở những bệnh nhân này là ngăn ngừa hậu quả nghiêm trọng của bệnh nhiễm trùng hơn là phòng ngừa bệnh biến chứng. Vaccine tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về độ tinh khiết và hiệu lực thường không có tác dụng không mong muốn toàn thân.
Vaccine cúm sống giảm độc lực (LAIV4)
LAIV là một vaccine dạng xịt qua mũi và chứa virus sống giảm độc lực, có thể gây ra các dấu hiệu và triệu chứng nhẹ. Nó được cấp phép sử dụng cho những người không mang thai từ 2-49 tuổi, bao gồm nhân viên y tế và những người tiếp xúc gần với những người có nguy cơ cao (trừ những người bị suy giảm miễn dịch nghiêm trọng cần được chăm sóc trong môi trường được bảo vệ). Có thể sử dụng sau khi sinh và được khuyến cáo cho trẻ khỏe mạnh từ 2 đến 8 tuổi mà không có chống chỉ định hoặc thận trọng.
Về mặt tác dụng, nó giúp làm giảm đáng kể tỷ lệ sốt nặng, số ngày ốm, tần suất đi khám bác sĩ và sử dụng kháng sinh. Trẻ em được tiêm LAIV giảm 55% khả năng mắc bệnh cúm (được xác nhận bằng nuôi cấy) so với trẻ được tiêm IIV, hiệu quả cao hơn 52% so với TIV trong việc ngăn ngừa cúm ở trẻ em từ 6-71 tháng tuổi đã từng bị nhiễm trùng đường hô hấp tái phát, và tăng 32% khả năng bảo vệ trong việc ngăn ngừa cúm ở trẻ em và thanh thiếu niên từ 6-17 tuổi bị hen suyễn.
Không nên sử dụng LAIV cho trẻ em và thanh thiếu niên đang dùng các sản phẩm có chứa aspirin hoặc salicylate, những người đã từng bị phản ứng dị ứng nghiêm trọng với vaccine hoặc bất kỳ thành phần nào của vaccine và bất kỳ vaccine cúm nào trước đó, phụ nữ mang thai, trẻ em và người lớn bị suy giảm miễn dịch (bao gồm suy giảm miễn dịch do thuốc và virus gây suy giảm miễn dịch ở người [HIV]), người chăm sóc và những người tiếp xúc gần với những người bị suy giảm miễn dịch cần ở trong môi trường được bảo vệ, trẻ em từ 2 đến 4 tuổi bị hen suyễn hoặc có cơn thở khò khè; và người đã dùng oseltamivir và zanamivir trong vòng 48 giờ trước đó, peramivir trong vòng 5 ngày trước đó hoặc baloxavir trong vòng 17 ngày trước đó.
Vaccine cúm tái tổ hợp (RIV)
RIV là vaccine cúm mới được phê duyệt gần đây, không bị bất hoạt hoặc làm yếu. Nó được khuyến cáo cho những bệnh nhân từ 18 tuổi, dị ứng với trứng mà không có chống chỉ định nào khác, vì không chứa bất kỳ protein trứng nào. Vaccine này sử dụng công nghệ DNA tái tổ hợp và hệ thống biểu hiện virus từ tế bào côn trùng để sản xuất vaccine chống lại bệnh cúm mùa, không chứa protein trứng.

Khuyến cáo về tiêm vaccine cúm và COVID-19
Tiêm vaccine cúm giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh cúm đồng thời giảm các triệu chứng bị nhầm lẫn với COVID-19. Đối với những bệnh nhân mắc COVID-19 nhẹ hoặc không có triệu chứng, nên hoãn tiêm chủng để tránh nhầm lẫn các triệu chứng của COVID-19 với các phản ứng sau tiêm chủng. Đối với những bệnh nhân mắc COVID-19 từ trung bình đến nặng, nên hoãn tiêm chủng cho đến khi hồi phục hoàn toàn.
Đối với những người chưa tiêm vaccine hoặc tiêm chưa đủ liều vaccine COVID-19 mà bị nhiễm COVID-19 hoặc đã tiếp xúc gần với người dương tính với COVID-19, nên hoãn tiêm vaccine cúm cho đến khi hoàn thành thời gian cách ly. Những người có triệu chứng chỉ nên đến địa điểm tiêm vaccine sau khi hồi phục hoàn toàn.
Đối với bệnh nhân đã nhập viện, cần tuân thủ các điều sau:
- Những bệnh nhân đã được tiêm vaccine đầy đủ và gần đây không tiếp xúc với những người nghi ngờ hoặc đã xác nhận nhiễm COVID-19 có thể tiến hành tiêm vaccine cúm
- Vaccine cúm có thể được tiêm cho những bệnh nhân đang trong thời gian cách ly do tiếp xúc gần với người dương tính với COVID-19 nếu không có khả năng tiêm vaccine lần nữa; việc tiêm vaccine có thể bị hoãn lại cho đến khi hoàn tất thời gian cách ly nếu các triệu chứng của COVID-19 có thể gây nhầm lẫn trong chẩn đoán
- Nên hoãn tiêm vaccine cho những cá nhân có triệu chứng, nghi ngờ hoặc đã xác nhận nhiễm COVID-19 cho đến khi đáp ứng đủ tiêu chí ngừng cách ly (ít nhất 10 ngày sau khi khởi phát triệu chứng và hết sốt trong 24 giờ mà không cần dùng thuốc hạ sốt) và triệu chứng của COVID-19 đang cải thiện, và người đó không còn bị bệnh mức độ trung bình đến nặng.
- Có thể tiêm vaccine cho những người không có triệu chứng hoặc tiền triệu, bị nghi ngờ hoặc đã xác nhận nhiễm COVID-19, hoặc người đã hồi phục hoàn toàn và hiện không có triệu chứng, ngay cả khi chưa đáp ứng được tiêu chí ngừng cách ly, đặc biệt là nếu không có khả tiêm vaccine lần nữa.
Thời gian tiêm chủng
Trong quá trình tiêm chủng, cần phải tuân thủ các chương trình phòng chống các bệnh ưu tiên của địa phương, nếu có.
Thời điểm tiêm vaccine cúm mùa
Vaccine cúm được tiêm hàng năm để tạo khả năng bảo vệ tối ưu. Vaccine nên được tiêm trước khi mùa cúm bắt đầu trong cộng đồng và nên bắt đầu trong suốt mùa cúm do thời gian kéo dài khác nhau.
Các chiến dịch tiêm chủng có thể bắt đầu sớm hơn (tháng 7-8 hoặc ngay khi có vaccine) nhằm đảm bảo có đủ thời gian để cộng đồng được tiêm vaccine phòng cúm, trong khi vẫn thích ứng với các biện pháp giãn cách xã hội được áp dụng ở nhiều quốc gia nhằm giảm sự lây lan của SARS-CoV-2.
Bắc bán cầu
Ở bắc bán cầu, tiêm vaccine hàng năm thường được thực hiện cho những người có nguy cơ cao và những người tiếp xúc gần với họ vào cuối tháng 10. Tiêm vaccine vào tháng 12 hoặc sau đó có thể được cân nhắc trong phần lớn mùa cúm. Mùa cúm thường diễn ra từ tháng 10 đến tháng 5.
Nam bán cầu
Ở nam bán cầu, việc tiêm vaccine hàng năm thường được thực hiện cho những người có nguy cơ cao và những người tiếp xúc gần với họ từ tháng 3 đến tháng 5. Mùa cúm thường diễn ra từ tháng 4 đến tháng 9.
Vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới
Ở các vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt, cúm có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong năm. Cao điểm có thể xảy ra 1-2 lần trong một năm và thường trùng với mùa mưa. Các chương trình y tế công cộng (tiêm vaccine cho người có nguy cơ cao và những người tiếp xúc gần với họ) nên được thực hiện vào cùng một thời điểm mỗi năm nếu có >1 đợt dịch cúm xảy ra trong năm. Nên sử dụng loại vaccine mới nhất hiện có.
Nhóm đối tượng được khuyến nghị tiêm vaccine phòng cúm mùa
Để bảo vệ bản thân, việc tiêm vaccine cúm mùa được khuyến cáo cho những đối tượng sau, là người có nguy cơ cao gặp biến chứng thứ phát sau đợt cúm nghiêm trọng:
- Tất cả những người ≥6 tháng tuổi, không có chống chỉ định
- Trẻ em từ 6-59 tháng tuổi
- Người lớn ≥50 tuổi
- Những người bị suy giảm miễn dịch, bao gồm những người bị suy giảm miễn dịch do HIV, ung thư và dùng thuốc (như hóa trị, xạ trị, dùng corticosteroid kéo dài)
- Những người mắc bệnh phổi mạn tính (bao gồm hen suyễn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính [COPD], xơ nang), tim mạch (bệnh tim bẩm sinh, suy tim sung huyết, bệnh động mạch vành ngoại trừ tăng huyết áp đơn độc), thận, gan, huyết học (như thiếu máu hồng cầu hình liềm), thần kinh (như đột quỵ) và rối loạn chuyển hóa (bao gồm đái tháo đường và rối loạn ty thể)
- Những người có chỉ số khối cơ thể BMI ≥40 kg/m2
- Trẻ em và thanh thiếu niên từ 6 tháng đến 18 tuổi, hiện đang dùng thuốc có chứa aspirin hoặc salicylate sẽ có nguy cơ mắc hội chứng Reye cao hơn sau một cơn cúm
- Phụ nữ dự định mang thai và phụ nữ mang thai trong mùa cúm (WHO cho rằng vaccine an toàn ở bất kỳ giai đoạn nào trong thai kỳ)
- Công nhân chăn nuôi gia cầm, người chăn nuôi lợn và những người trong ngành giết mổ lợn
- Người chăm sóc hoặc những ai sống cùng những người có nguy cơ cao (ví dụ: thành viên gia đình và người chăm sóc những cá nhân có nguy cơ cao, nhân viên y tế)
- Người sống tại cơ sở dành cho người khuyết tật về thể chất hoặc tâm thần, viện dưỡng lão và các cơ sở chăm sóc dài hạn khác Các trường hợp khác được khuyên nên tham khảo ý kiến bác sĩ nếu họ muốn tiêm vaccine cúm mùa
Quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn hoặc cách ly
Các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn cho bệnh nhân ngoại trú
Bệnh nhân ngoại trú được khuyến cáo thường xuyên rửa tay bằng xà phòng và nước, che mũi và miệng khi hắt hơi hoặc ho, và vứt bỏ đúng cách dịch tiết mũi, miệng và khăn giấy đã sử dụng. Người bệnh được khuyến cáo sử dụng khẩu trang y tế thay vì khẩu trang giấy. Tất cả các thành viên trong gia đình nên được giáo dục về vệ sinh cá nhân và các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn (ví dụ rửa tay, sử dụng khẩu trang y tế), và được khuyên tránh dùng chung đồ dùng, khăn tắm và khăn trải giường giữa bệnh nhân và người khác. Khuyên họ vệ sinh tất cả các bề mặt môi trường bị bẩn do dịch cơ thể bằng chất khử trùng gia dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất và đảm bảo đeo găng tay trong quá trình này.
Đối với người lớn, cần hạn chế các giao tiếp xã hội (bệnh nhân không nên đi làm, đi học hoặc đến các khu vực công cộng khác). Khuyên họ tiếp tục các biện pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn cho đến 21 ngày sau khi hết sốt và các triệu chứng hô hấp được cải thiện hoặc khỏi hoàn toàn.
Đối với trẻ em dưới 12 tuổi, cũng nên hạn chế tiếp xúc xã hội (bệnh nhân không nên đến trường hoặc các khu vực công cộng khác). Tiếp tục các biện pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn cho đến 21 ngày sau khi hết sốt và các triệu chứng hô hấp được cải thiện hoặc khỏi hoàn toàn.
Các thành viên trong gia đình hoặc những người tiếp xúc gần với bệnh nhân cúm gia cầm đã được chẩn đoán, xuất hiện sốt hoặc triệu chứng hô hấp nên liên hệ ngay với cơ quan y tế công cộng địa phương hoặc đường dây nóng của WHO.
Biện pháp phòng ngừa cách ly cho bệnh nhân nhập viện
Các biện pháp phòng ngừa cách ly bao gồm các biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn, phòng ngừa lây nhiễm qua giọt bắn hoặc qua không khí. Chúng được áp dụng cho tất cả bệnh nhân nhập viện được chẩn đoán hoặc nghi ngờ mắc cúm A.
Các biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn yêu cầu vệ sinh tay cẩn thận trước và sau khi tiếp xúc với bệnh nhân, đồng thời sử dụng găng tay hoặc áo choàng phù hợp khi cần thiết. Các biện pháp phòng ngừa giọt bắn yêu cầu đeo khẩu trang y tế nếu cách bệnh nhân trong vòng 1 m. Các biện pháp phòng ngừa lây nhiễm qua không khí còn gây tranh cãi và chỉ được áp dụng cho các quy trình chăm sóc bệnh nhân đặc biệt. Nếu có, hãy đưa bệnh nhân vào phòng áp lực âm (tức là được theo dõi, có áp suất không khí âm so với các khu vực xung quanh, kèm 6 đến 12 lần trao đổi khí mỗi giờ). Khi vào phòng, hãy sử dụng khẩu trang có khả năng lọc cao, nếu có, hoặc khẩu trang y tế.
Trong thời gian cách ly, cần tuân thủ các biện pháp hạn chế. Nếu không thể sắp xếp bệnh nhân trong phòng đơn, hãy sắp xếp bệnh nhân nằm riêng tại phòng hoặc khoa có nhiều giường được chỉ định. Các giường nên được đặt cách nhau 1 mét và ngăn bằng rèm hoặc vách ngăn. Hạn chế số lượng nhân viên y tế tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân và họ không được chăm sóc những bệnh nhân khác. Hạn chế số lượng khách đến thăm và cung cấp cho họ thiết bị bảo hộ cá nhân phù hợp (khẩu trang, áo choàng, găng tay, tấm chắn mặt hoặc kính bảo hộ) và hướng dẫn họ cách sử dụng.
Bệnh nhân xuất viện trước 14 ngày phải thực hiện các biện pháp cách ly cần thiết như đối với bệnh nhân ngoại trú đã được liệt kê ở trên.
Các bác sĩ nên giữ liên lạc với cơ quan y tế địa phương để cập nhật thông tin về khuyến cáo cách ly mới nhất.