Content:
Giới thiệu
Nội dung của trang này:
Giới thiệu
Dịch tễ học
Sinh lý bệnh
Sinh bệnh học
Yếu tố nguy cơ
Phân loại
Nội dung của trang này:
Giới thiệu
Dịch tễ học
Sinh lý bệnh
Sinh bệnh học
Yếu tố nguy cơ
Phân loại
Giới thiệu
Ung thư buồng trứng là ung thư khởi phát ở buồng trứng.
Dịch tễ học
Khoảng 1,1% phụ nữ sẽ được chẩn đoán ung thư buồng trứng tại một thời điểm nào đó. Vào năm 2022, ung thư buồng trứng chiếm 324.603 ca mới, cướp đi sinh mạng của 206.956 người. Nguy cơ ung thư buồng trứng được ghi nhận là cao nhất ở các nước có thu nhập cao, nhưng cũng được ghi nhận là tăng không cân xứng ở các nước có thu nhập thấp. Đây là bệnh ác tính phụ khoa phổ biến thứ ba ở các nước có thu nhập cao và là bệnh ác tính phổ biến thứ ba ở các nước có thu nhập thấp đến trung bình (ung thư cổ tử cung là phổ biến nhất). Ung thư buồng trứng là loại ung thư gây tử vong nhiều nhất ở phụ nữ, với tỷ lệ sống còn 5 năm khoảng 49%. Mặc dù thời gian sống còn dài hơn đối với một số bệnh nhân giai đoạn sớm và một số phân nhóm mô học nhất định. Đây là nguyên nhân tử vong hàng đầu liên quan đến ung thư phụ khoa. Độ tuổi trung bình tại thời điểm chẩn đoán là 63 tuổi và >70% có bệnh tiến xa.
Trong số các châu lục, châu Á có tỷ lệ mắc ung thư buồng trứng cao nhất, với tới 178.223 ca mới vào năm 2022. Châu Á cũng chứng kiến tỷ lệ tử vong cao nhất, với 109.547 ca tử vong. Tại Philippines, có 6.453 ca mới vào năm 2022, với 4.073 ca tử vong.
Trong số các châu lục, châu Á có tỷ lệ mắc ung thư buồng trứng cao nhất, với tới 178.223 ca mới vào năm 2022. Châu Á cũng chứng kiến tỷ lệ tử vong cao nhất, với 109.547 ca tử vong. Tại Philippines, có 6.453 ca mới vào năm 2022, với 4.073 ca tử vong.
Sinh lý bệnh
Phần lớn ung thư buồng trứng nguyên phát là biểu mô, trong khi phần còn lại là bướu tế bào mầm hoặc mô đệm dây sinh dục. Bốn phân nhóm phổ biến nhất của ung thư biểu mô buồng trứng bao gồm thanh dịch, nội mạc tử cung, tế bào sáng và dịch nhầy. Trong số các loại ung thư biểu mô buồng trứng, ung thư biểu mô thanh dịch buồng trứng là phân nhóm phổ biến nhất. Loại mô học này biểu hiện dưới dạng ung thư biểu mô grade thấp (ở 10% các trường hợp) hoặc grade cao (90% trong số tất cả bướu thanh dịch). Phân tích phân tử cho thấy ung thư biểu mô grade cao có tần suất cao của đột biến p53 và BRCA1 và 2. Mặt khác, ung thư biểu mô thanh dịch grade thấp (LGSC) cho thấy ít bất thường về phân tử hơn. Phân tích phân tử của LGSC cho thấy tần suất cao của đột biến KRAS và BRAF.
Ung thư buồng trứng dạng nội mạc tử cung được cho là có nguồn gốc từ lạc nội mạc tử cung. Đột biến gen beta-catenin là một trong những bất thường phân tử phổ biến nhất được quan sát thấy ở ung thư buồng trứng dạng nội mạc tử cung. Những bướu này cũng biểu hiện mức độ bất ổn vi vệ tinh cao. Một phân nhóm khác có liên quan đến lạc nội mạc tử cung là ung thư biểu mô buồng trứng tế bào sáng. Giống như ung thư biểu mô buồng trứng dạng nội mạc tử cung, ung thư biểu mô buồng trứng tế bào sáng cũng cho thấy mức độ bất ổn vi vệ tinh đáng kể. Bướu buồng trứng dịch nhầy có thể giống nội mạc cổ tử cung hoặc giống ruột. Đáng chú ý là đột biến KRAS cũng như một số gen mucin (ví dụ MUC2, MUC3, MUC17) phổ biến ở những bướu này, đặc trưng của ung thư biểu mô dịch nhầy bất kể nguồn gốc của chúng.
Trong trường hợp ung thư mô đệm dây sinh dục buồng trứng, chúng phát sinh từ các tế bào thường trở thành mô đệm sinh dục chuyên biệt bao quanh tế bào trứng, bao gồm các tế bào hạt, tế bào màng, tế bào Sertoli, tế bào Leydig và nguyên bào sợi. Cuối cùng, bướu tế bào mầm buồng trứng có sự đa dạng về mặt mô học nhưng có nguồn gốc chung từ tế bào mầm nguyên thủy.
Ung thư buồng trứng dạng nội mạc tử cung được cho là có nguồn gốc từ lạc nội mạc tử cung. Đột biến gen beta-catenin là một trong những bất thường phân tử phổ biến nhất được quan sát thấy ở ung thư buồng trứng dạng nội mạc tử cung. Những bướu này cũng biểu hiện mức độ bất ổn vi vệ tinh cao. Một phân nhóm khác có liên quan đến lạc nội mạc tử cung là ung thư biểu mô buồng trứng tế bào sáng. Giống như ung thư biểu mô buồng trứng dạng nội mạc tử cung, ung thư biểu mô buồng trứng tế bào sáng cũng cho thấy mức độ bất ổn vi vệ tinh đáng kể. Bướu buồng trứng dịch nhầy có thể giống nội mạc cổ tử cung hoặc giống ruột. Đáng chú ý là đột biến KRAS cũng như một số gen mucin (ví dụ MUC2, MUC3, MUC17) phổ biến ở những bướu này, đặc trưng của ung thư biểu mô dịch nhầy bất kể nguồn gốc của chúng.
Trong trường hợp ung thư mô đệm dây sinh dục buồng trứng, chúng phát sinh từ các tế bào thường trở thành mô đệm sinh dục chuyên biệt bao quanh tế bào trứng, bao gồm các tế bào hạt, tế bào màng, tế bào Sertoli, tế bào Leydig và nguyên bào sợi. Cuối cùng, bướu tế bào mầm buồng trứng có sự đa dạng về mặt mô học nhưng có nguồn gốc chung từ tế bào mầm nguyên thủy.
Sinh bệnh học
Sinh bệnh học của ung thư buồng trứng vẫn chưa được hiểu rõ; tuy nhiên, nguồn gốc của ung thư biểu mô buồng trứng đã trở thành vấn đề tranh cãi. Ban đầu, tất cả các loại ung thư buồng trứng được cho là phát sinh từ biểu mô bề mặt buồng trứng. Giả thuyết rụng trứng liên tục cho rằng sự tham gia lặp đi lặp lại của bề mặt buồng trứng trong quá trình rụng trứng là một yếu tố nguy cơ gây ung thư buồng trứng. Khi phụ nữ già đi, rụng trứng xảy ra nhiều lần, dẫn đến chấn thương hoặc tổn thương lặp đi lặp lại đối với biểu mô, cuối cùng gây tổn thương DNA tế bào và khi tiếp xúc với hormone buồng trứng, các tế bào bị tổn thương DNA này sẽ chuyển thành tế bào ung thư. Tuy nhiên, bằng chứng đã tích lũy cho thấy nhiều loại ung thư biểu mô buồng trứng có nguồn gốc từ ống dẫn trứng xa. Thật vậy, loạn sản biểu mô giống HGSC được tìm thấy với tỷ lệ cao ở những ống dẫn trứng của phụ nữ có đột biến BRCA1/2 được phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng-vòi trứng dự phòng và những người có tiền sử gia đình mắc ung thư buồng trứng. Loạn sản biểu mô này, được gọi là ung thư biểu mô trong ống dẫn trứng (TIC), biểu hiện mức độ đột biến TP53 cao. Sau đó, những tổn thương tương tự cũng được tìm thấy ở 60% các trường hợp ung thư buồng trứng riêng lẻ. Tuy nhiên, những tổn thương tiền thân này không được tìm thấy ở ung thư buồng trứng không thanh dịch, ngụ ý rằng có một cơ chế khác, chẳng hạn như lạc nội mạc tử cung. Mặc dù cơ chế chính xác vẫn chưa được giải thích, nhưng lạc nội mạc tử cung có liên quan đến ung thư buồng trứng, đặc biệt là loại nội mạc tử cung và loại tế bào sáng.
Ung thư buồng trứng có thể là một phần của tình trạng ung thư buồng trứng gia đình di truyền (2 hoặc nhiều người thân thế hệ một mắc ung thư buồng trứng), hội chứng ung thư vú-buồng trứng (các nhóm ung thư vú và buồng trứng ở những người thân thế hệ một và thế hệ hai) hoặc hội chứng Lynch.
Ung thư buồng trứng có thể là một phần của tình trạng ung thư buồng trứng gia đình di truyền (2 hoặc nhiều người thân thế hệ một mắc ung thư buồng trứng), hội chứng ung thư vú-buồng trứng (các nhóm ung thư vú và buồng trứng ở những người thân thế hệ một và thế hệ hai) hoặc hội chứng Lynch.
Yếu tố nguy cơ
Tăng nguy cơ
Tiền sử gia đình mắc ung thư có liên quan đến bệnh khởi phát sớm. Bệnh nhân có ≥2 người thân thế hệ một mắc ung thư buồng trứng sẽ tăng nguy cơ mắc bệnh. Tiền sử gia đình mắc ung thư vú nam giới, cả hai bên hoặc khởi phát sớm (<50 tuổi), và tiền sử cá nhân hoặc gia đình mắc ung thư đại tràng, buồng trứng hoặc nội mạc tử cung cũng làm tăng nguy cơ.
Hội chứng di truyền cũng liên quan đến bệnh khởi phát sớm. Đột biến BRCA1 và BRCA2 có nguy cơ tuyệt đối lần lượt là 39 đến 58% và 13 đến 29% mắc ung thư buồng trứng. Đột biến PALB2 có nguy cơ tuyệt đối từ 3 đến 5% mắc ung thư buồng trứng. Đột biến BRIP1, RAD51C và RAD51D có nguy cơ tuyệt đối >10% mắc ung thư buồng trứng. Đột biến MLH1 & MSH2 có nguy cơ tuyệt đối >10% mắc ung thư biểu mô buồng trứng. Hội chứng Lynch (ung thư đại tràng không polyp di truyền) có nguy cơ trong suốt cuộc đời là 10%. Bệnh Cowden có nguy cơ ung thư buồng trứng cao hơn do đột biến gen PTEN. Hội chứng Peutz-Jeghers thứ phát do đột biến gen STK11 và bệnh polyp liên quan đến MUTYH do đột biến gen MUTYH đều liên quan đến tăng nguy cơ ung thư buồng trứng.
Nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng tăng theo tuổi và phổ biến nhất ở thập kỷ thứ tám trong đời. Tiền sử sinh sản như chưa sinh con hoặc tuổi >35 khi sinh con đầu lòng, có kinh nguyệt sớm và mãn kinh muộn cũng làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng. Tiền sử cá nhân mắc ung thư vú hoặc ung thư biểu mô buồng trứng cũng làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng. Nguy cơ ung thư buồng trứng sau ung thư vú cao nhất ở những phụ nữ có tiền sử gia đình mắc ung thư vú. Phụ nữ béo phì có chỉ số khối cơ thể ít nhất là 30 kg/m2 có nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng cao hơn. Bệnh viêm vùng chậu (PID) cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng. Hút thuốc có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư biểu mô dịch nhầy.
Một số nghiên cứu cho thấy sử dụng thuốc bổ trợ sinh sản clomiphene citrate trong >1 năm làm tăng nguy cơ phát triển bướu buồng trứng có khả năng ác tính thấp. Nguy cơ này được chứng minh là cao nhất ở những phụ nữ không mang thai trong khi dùng thuốc. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ sau mãn kinh sử dụng liệu pháp đơn trị estrogen trong ít nhất 5 đến 10 năm có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng cao hơn. Nguy cơ ung thư buồng trứng giáp biên có thể tăng sau khi kích thích buồng trứng để thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ dùng androgen có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng cao hơn. Một số nghiên cứu cho thấy nguy cơ ung thư buồng trứng tăng rất nhẹ ở phụ nữ sử dụng bột talc ở vùng sinh dục.
Giảm nguy cơ
Tiền sử mang thai và sinh con lần đầu khi còn trẻ (≤25 tuổi) có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng thấp hơn 30 đến 60%. Sử dụng thuốc tránh thai đường uống trong >5 năm làm giảm đáng kể nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Cho con bú có nguy cơ thấp hơn 30-60%. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng chế độ ăn ít chất béo trong ít nhất 4 năm có nguy cơ ung thư buồng trứng thấp hơn. Phẫu thuật phụ khoa (ví dụ cắt tử cung, cắt buồng trứng dự phòng, thắt ống dẫn trứng) cũng làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng. Thắt ống dẫn trứng có thể làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng tới 67%. Hút thuốc có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư biểu mô tế bào sáng.
Tiền sử gia đình mắc ung thư có liên quan đến bệnh khởi phát sớm. Bệnh nhân có ≥2 người thân thế hệ một mắc ung thư buồng trứng sẽ tăng nguy cơ mắc bệnh. Tiền sử gia đình mắc ung thư vú nam giới, cả hai bên hoặc khởi phát sớm (<50 tuổi), và tiền sử cá nhân hoặc gia đình mắc ung thư đại tràng, buồng trứng hoặc nội mạc tử cung cũng làm tăng nguy cơ.
Hội chứng di truyền cũng liên quan đến bệnh khởi phát sớm. Đột biến BRCA1 và BRCA2 có nguy cơ tuyệt đối lần lượt là 39 đến 58% và 13 đến 29% mắc ung thư buồng trứng. Đột biến PALB2 có nguy cơ tuyệt đối từ 3 đến 5% mắc ung thư buồng trứng. Đột biến BRIP1, RAD51C và RAD51D có nguy cơ tuyệt đối >10% mắc ung thư buồng trứng. Đột biến MLH1 & MSH2 có nguy cơ tuyệt đối >10% mắc ung thư biểu mô buồng trứng. Hội chứng Lynch (ung thư đại tràng không polyp di truyền) có nguy cơ trong suốt cuộc đời là 10%. Bệnh Cowden có nguy cơ ung thư buồng trứng cao hơn do đột biến gen PTEN. Hội chứng Peutz-Jeghers thứ phát do đột biến gen STK11 và bệnh polyp liên quan đến MUTYH do đột biến gen MUTYH đều liên quan đến tăng nguy cơ ung thư buồng trứng.
Nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng tăng theo tuổi và phổ biến nhất ở thập kỷ thứ tám trong đời. Tiền sử sinh sản như chưa sinh con hoặc tuổi >35 khi sinh con đầu lòng, có kinh nguyệt sớm và mãn kinh muộn cũng làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng. Tiền sử cá nhân mắc ung thư vú hoặc ung thư biểu mô buồng trứng cũng làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng. Nguy cơ ung thư buồng trứng sau ung thư vú cao nhất ở những phụ nữ có tiền sử gia đình mắc ung thư vú. Phụ nữ béo phì có chỉ số khối cơ thể ít nhất là 30 kg/m2 có nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng cao hơn. Bệnh viêm vùng chậu (PID) cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng. Hút thuốc có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư biểu mô dịch nhầy.
Một số nghiên cứu cho thấy sử dụng thuốc bổ trợ sinh sản clomiphene citrate trong >1 năm làm tăng nguy cơ phát triển bướu buồng trứng có khả năng ác tính thấp. Nguy cơ này được chứng minh là cao nhất ở những phụ nữ không mang thai trong khi dùng thuốc. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ sau mãn kinh sử dụng liệu pháp đơn trị estrogen trong ít nhất 5 đến 10 năm có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng cao hơn. Nguy cơ ung thư buồng trứng giáp biên có thể tăng sau khi kích thích buồng trứng để thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ dùng androgen có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng cao hơn. Một số nghiên cứu cho thấy nguy cơ ung thư buồng trứng tăng rất nhẹ ở phụ nữ sử dụng bột talc ở vùng sinh dục.
Giảm nguy cơ
Tiền sử mang thai và sinh con lần đầu khi còn trẻ (≤25 tuổi) có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng thấp hơn 30 đến 60%. Sử dụng thuốc tránh thai đường uống trong >5 năm làm giảm đáng kể nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Cho con bú có nguy cơ thấp hơn 30-60%. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng chế độ ăn ít chất béo trong ít nhất 4 năm có nguy cơ ung thư buồng trứng thấp hơn. Phẫu thuật phụ khoa (ví dụ cắt tử cung, cắt buồng trứng dự phòng, thắt ống dẫn trứng) cũng làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng. Thắt ống dẫn trứng có thể làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng tới 67%. Hút thuốc có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư biểu mô tế bào sáng.
Phân loại
Ung thư buồng trứng có ba loại mô học như sau:
Ung thư buồng trứng loại 1 bao gồm các loại mô học LGSC, dịch nhầy, nội mạc tử cung, tế bào sáng và chuyển tiếp. Những bướu này thường ở giai đoạn sớm, grade thấp (trừ các loại tế bào sáng được coi là grade cao), có diễn tiến tương đối chậm, thường được chẩn đoán sớm và có tiên lượng tốt. Những bướu này được đặc trưng bởi các đột biến KRAS, BRAF, ERBB2, CTNNB1, PTEN, PIK3CA, ARID1A, PPP2R1A và BCL2.
Mặt khác, các bướu buồng trứng loại II bao gồm HGSC, carcinosarcoma và ung thư biểu mô không biệt hóa. Những bướu này grade cao, có hoạt động tăng sinh cao với tiến triển nhanh và hung hãn, và hầu như luôn ở giai đoạn tiến xa. Ung thư buồng trứng loại II có tính bất ổn định di truyền cao với tỷ lệ đột biến TP53 cao trong nhiều trường hợp.
- Ung thư biểu mô buồng trứng chủ yếu gặp ở phụ nữ >50 tuổi và gặp ở >90% bệnh nhân có bướu tân sinh buồng trứng
- Ung thư tế bào mầm buồng trứng thường gặp ở phụ nữ <20 tuổi
- Ung thư buồng trứng mô đệm-dây sinh dục hiếm gặp và sản xuất hormone steroid
- Carcinosarcoma - bướu Müllerian hỗn hợp ác tính của buồng trứng
- Ung thư biểu mô tế bào sáng
- Bướu tân sinh dịch nhầy
- Ung thư biểu mô thanh dịch grade thấp hoặc grade 1 hoặc ung thư biểu mô dạng nội mạc tử cung
- Bướu biểu mô giáp biên thanh dịch còn được gọi là bướu có khả năng ác tính thấp
Ung thư buồng trứng loại 1 bao gồm các loại mô học LGSC, dịch nhầy, nội mạc tử cung, tế bào sáng và chuyển tiếp. Những bướu này thường ở giai đoạn sớm, grade thấp (trừ các loại tế bào sáng được coi là grade cao), có diễn tiến tương đối chậm, thường được chẩn đoán sớm và có tiên lượng tốt. Những bướu này được đặc trưng bởi các đột biến KRAS, BRAF, ERBB2, CTNNB1, PTEN, PIK3CA, ARID1A, PPP2R1A và BCL2.
Mặt khác, các bướu buồng trứng loại II bao gồm HGSC, carcinosarcoma và ung thư biểu mô không biệt hóa. Những bướu này grade cao, có hoạt động tăng sinh cao với tiến triển nhanh và hung hãn, và hầu như luôn ở giai đoạn tiến xa. Ung thư buồng trứng loại II có tính bất ổn định di truyền cao với tỷ lệ đột biến TP53 cao trong nhiều trường hợp.