Content:
Đánh giá
Nội dung của trang này:
Đánh giá
Điều trị bằng thuốc
Điều trị không dùng thuốc
Phẫu thuật
Xạ trị
Nội dung của trang này:
Đánh giá
Điều trị bằng thuốc
Điều trị không dùng thuốc
Phẫu thuật
Xạ trị
Đánh giá
Chỉ số nguy cơ ác tính (RMI)
Chỉ số nguy cơ ác tính được sử dụng ở những phụ nữ nghi ngờ ung thư buồng trứng để giúp hướng dẫn điều trị bệnh nhân. Chỉ số này là tổng hợp của CA-125 huyết thanh, tình trạng mãn kinh và điểm siêu âm của bệnh nhân.
Chỉ số này dễ sử dụng nhưng bị ảnh hưởng tiêu cực ở độ tuổi tiền mãn kinh do tỷ lệ nồng độ CA-125 tăng ở nhóm tuổi này có thể là thứ phát sau bướu nội mạc tử cung, bướu buồng trứng giáp biên hoặc bướu buồng trứng không phải biểu mô.
Giai đoạn
Giai đoạn xác định mức độ bệnh ung thư khi chẩn đoán. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp điều trị và có thể dự đoán tiên lượng.
Hệ thống phân loại ung thư buồng trứng của Liên đoàn Sản phụ khoa Quốc tế (FIGO)
Liên đoàn Sản phụ khoa Quốc tế (FIGO) đã phát triển hệ thống phân loại ung thư buồng trứng FIGO.
Giai đoạn I (T1)
Giai đoạn I (T1) là khi bướu giới hạn ở buồng trứng hoặc ống dẫn trứng, không có di căn hạch vùng (LN) hoặc di căn cơ quan xa.
Giai đoạn IA (T1a)
Giai đoạn IA (T1a) là khi bướu giới hạn ở một buồng trứng với vỏ bao hoặc ống dẫn trứng còn nguyên vẹn, không có bướu trên bề mặt buồng trứng hoặc ống dẫn trứng, không có tế bào ác tính trong dịch bụng hoặc dịch rửa phúc mạc, không có di căn hạch vùng hoặc di căn cơ quan xa.
Giai đoạn IB (T1b)
Giai đoạn IB (T1B) là khi bướu liên quan đến cả hai buồng trứng với vỏ bao hoặc ống dẫn trứng còn nguyên vẹn, không có bướu trên bề mặt buồng trứng hoặc ống dẫn trứng, không có tế bào ác tính trong dịch bụng hoặc dịch rửa phúc mạc, không có di căn hạch vùng hoặc di căn cơ quan xa.
Giai đoạn IC
Giai đoạn IC là khi bướu giới hạn ở một hoặc cả hai buồng trứng hoặc ống dẫn trứng, với bất kỳ dấu hiệu nào sau đây:
Giai đoạn II (T2) là khi bướu nằm ở một hoặc cả hai buồng trứng hoặc ống dẫn trứng có lan rộng xuống vùng chậu (dưới vành chậu) hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát.
Giai đoạn IIA (T2a)
Giai đoạn IIA (T2a) là khi bướu lan rộng và/hoặc ăn lan vào tử cung và/hoặc buồng trứng và/hoặc ống dẫn trứng.
Giai đoạn IIB (T2b)
Giai đoạn IIB (T2B) là khi bướu lan rộng đến các mô khác trong phúc mạc vùng chậu.
Giai đoạn III (T1/T2-N1; T3-N1)
Giai đoạn III là khi bướu nằm ở một hoặc cả hai buồng trứng hoặc ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát, có di căn phúc mạc ngoài vùng chậu được xác nhận bằng mô học hoặc tế bào học và/hoặc di căn hạch sau phúc mạc.
Giai đoạn IIIA1 (T1/T2-N1)
Giai đoạn IIIA1 là khi chỉ có hạch bạch huyết sau phúc mạc dương tính: IIIA1(i) (N1a) Di căn ≤10 mm; IIIA1(ii) (N1b) Di căn >10 mm
Giai đoạn IIIA2 (T3a2-N0/N1)
Giai đoạn IIIA2 là khi có di căn vi thể phúc mạc ngoài chậu (phía trên vành chậu) có hoặc không có hạch bạch sau phúc mạc dương tính.
Giai đoạn IIIB (T3b-N0/N1)
Giai đoạn IIIB là khi có di căn phúc mạc đại thể ngoài vùng chậu ≤2 cm có hoặc không có di căn hạch sau phúc mạc.
Giai đoạn IIIC (T3c-N0/N1)
Giai đoạn IIIC là khi có di căn phúc mạc đại thể bên ngoài chậu >2 cm có hoặc không có di căn hạch sau phúc mạc; bao gồm lan rộng đến bao gan và lách.
Giai đoạn IV (T bất kỳ, N bất kỳ, M1)
Giai đoạn IV liên quan đến di căn xa, không bao gồm di căn phúc mạc.
Giai đoạn IVA (M1a)
Giai đoạn IVA là khi có tràn dịch màng phổi với tế bào học dương tính.
Giai đoạn IVB (M1b)
Giai đoạn IVB là khi có di căn đến nhu mô, các cơ quan ngoài ổ bụng (bao gồm hạch bẹn và hạch bên ngoài khoang bụng); liên quan xuyên thành ruột.
Ovarian Cancer_Management
Chỉ số nguy cơ ác tính được sử dụng ở những phụ nữ nghi ngờ ung thư buồng trứng để giúp hướng dẫn điều trị bệnh nhân. Chỉ số này là tổng hợp của CA-125 huyết thanh, tình trạng mãn kinh và điểm siêu âm của bệnh nhân.
Chỉ số này dễ sử dụng nhưng bị ảnh hưởng tiêu cực ở độ tuổi tiền mãn kinh do tỷ lệ nồng độ CA-125 tăng ở nhóm tuổi này có thể là thứ phát sau bướu nội mạc tử cung, bướu buồng trứng giáp biên hoặc bướu buồng trứng không phải biểu mô.
Giai đoạn
Giai đoạn xác định mức độ bệnh ung thư khi chẩn đoán. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp điều trị và có thể dự đoán tiên lượng.
Hệ thống phân loại ung thư buồng trứng của Liên đoàn Sản phụ khoa Quốc tế (FIGO)
Liên đoàn Sản phụ khoa Quốc tế (FIGO) đã phát triển hệ thống phân loại ung thư buồng trứng FIGO.
Giai đoạn I (T1)
Giai đoạn I (T1) là khi bướu giới hạn ở buồng trứng hoặc ống dẫn trứng, không có di căn hạch vùng (LN) hoặc di căn cơ quan xa.
Giai đoạn IA (T1a)
Giai đoạn IA (T1a) là khi bướu giới hạn ở một buồng trứng với vỏ bao hoặc ống dẫn trứng còn nguyên vẹn, không có bướu trên bề mặt buồng trứng hoặc ống dẫn trứng, không có tế bào ác tính trong dịch bụng hoặc dịch rửa phúc mạc, không có di căn hạch vùng hoặc di căn cơ quan xa.
Giai đoạn IB (T1b)
Giai đoạn IB (T1B) là khi bướu liên quan đến cả hai buồng trứng với vỏ bao hoặc ống dẫn trứng còn nguyên vẹn, không có bướu trên bề mặt buồng trứng hoặc ống dẫn trứng, không có tế bào ác tính trong dịch bụng hoặc dịch rửa phúc mạc, không có di căn hạch vùng hoặc di căn cơ quan xa.
Giai đoạn IC
Giai đoạn IC là khi bướu giới hạn ở một hoặc cả hai buồng trứng hoặc ống dẫn trứng, với bất kỳ dấu hiệu nào sau đây:
- Giai đoạn IC1 (T1c1): Bướu vỡ khi phẫu thuật
- Giai đoạn IC2 (T1c2): Có bướu trên bề mặt buồng trứng hoặc ống dẫn trứng hoặc vỡ vỏ bao trước khi phẫu thuật
- Giai đoạn IC3 (T1c3): Có tế bào ác tính trong dịch bụng hoặc dịch rửa phúc mạc
Giai đoạn II (T2) là khi bướu nằm ở một hoặc cả hai buồng trứng hoặc ống dẫn trứng có lan rộng xuống vùng chậu (dưới vành chậu) hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát.
Giai đoạn IIA (T2a)
Giai đoạn IIA (T2a) là khi bướu lan rộng và/hoặc ăn lan vào tử cung và/hoặc buồng trứng và/hoặc ống dẫn trứng.
Giai đoạn IIB (T2b)
Giai đoạn IIB (T2B) là khi bướu lan rộng đến các mô khác trong phúc mạc vùng chậu.
Giai đoạn III (T1/T2-N1; T3-N1)
Giai đoạn III là khi bướu nằm ở một hoặc cả hai buồng trứng hoặc ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát, có di căn phúc mạc ngoài vùng chậu được xác nhận bằng mô học hoặc tế bào học và/hoặc di căn hạch sau phúc mạc.
Giai đoạn IIIA1 (T1/T2-N1)
Giai đoạn IIIA1 là khi chỉ có hạch bạch huyết sau phúc mạc dương tính: IIIA1(i) (N1a) Di căn ≤10 mm; IIIA1(ii) (N1b) Di căn >10 mm
Giai đoạn IIIA2 (T3a2-N0/N1)
Giai đoạn IIIA2 là khi có di căn vi thể phúc mạc ngoài chậu (phía trên vành chậu) có hoặc không có hạch bạch sau phúc mạc dương tính.
Giai đoạn IIIB (T3b-N0/N1)
Giai đoạn IIIB là khi có di căn phúc mạc đại thể ngoài vùng chậu ≤2 cm có hoặc không có di căn hạch sau phúc mạc.
Giai đoạn IIIC (T3c-N0/N1)
Giai đoạn IIIC là khi có di căn phúc mạc đại thể bên ngoài chậu >2 cm có hoặc không có di căn hạch sau phúc mạc; bao gồm lan rộng đến bao gan và lách.
Giai đoạn IV (T bất kỳ, N bất kỳ, M1)
Giai đoạn IV liên quan đến di căn xa, không bao gồm di căn phúc mạc.
Giai đoạn IVA (M1a)
Giai đoạn IVA là khi có tràn dịch màng phổi với tế bào học dương tính.
Giai đoạn IVB (M1b)
Giai đoạn IVB là khi có di căn đến nhu mô, các cơ quan ngoài ổ bụng (bao gồm hạch bẹn và hạch bên ngoài khoang bụng); liên quan xuyên thành ruột.

Điều trị bằng thuốc
Liệu pháp toàn thân
Hóa trị tân bổ trợ cho ung thư biểu mô buồng trứng
Hóa trị tân bổ trợ nên được cân nhắc ở những bệnh nhân ung thư buồng trứng giai đoạn tiến xa không phù hợp với phẫu thuật giảm trước tế bào bướu nguyên phát do tuổi cao, suy nhược, chỉ số hoạt động kém, bệnh đi kèm, hoặc mắc các bệnh không có khả năng phẫu thuật giảm tế bào bướu tối ưu. Các phác đồ hóa trị tân bổ trợ được khuyến cáo bao gồm paclitaxel/carboplatin, paclitaxel/carboplatin liều dày, docetaxel/carboplatin, carboplatin/doxorubicin liposome pegylated và paclitaxel/carboplatin/bevacizumab. Các phác đồ có bevacizumab nên được sử dụng thận trọng trước phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ (IDS) do ảnh hưởng đến quá trình lành vết thương sau phẫu thuật. Nếu được sử dụng như một phần của liệu pháp tân bổ trợ, nên ngừng bevacizumab ít nhất 6 tuần trước khi phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ.
Hóa trị trong phúc mạc nhiệt độ cao (HIPEC) có thể được cân nhắc ở những bệnh nhân giai đoạn III đang được điều trị tân bổ trợ tại thời điểm phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ. Đây là thủ thuật trong đó hóa trị được thực hiện trong dung dịch được làm nóng, truyền vào khoang phúc mạc, làm tăng tính thâm nhập của hóa trị vào bề mặt phúc mạc, và tăng độ nhạy cảm của tế bào ung thư với hóa trị. Đây là một lựa chọn cho những bệnh nhân giai đoạn III có đáp ứng hoặc bệnh ổn định sau ba chu kỳ điều trị tân bổ trợ. Thuốc được khuyến cáo cho hóa trị trong phúc mạc nhiệt độ cao là cisplatin.
Liệu pháp toàn thân cho ung thư biểu mô buồng trứng
Hầu hết bệnh nhân nên được điều trị hóa trị toàn thân sau phẫu thuật. Sau khi phẫu thuật giảm tế bào bướu, hóa trị dựa trên platinum là phương pháp điều trị được lựa chọn cho những bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng tiến xa, được bắt đầu trong vòng 6 tuần sau phẫu thuật. Đơn trị liệu bằng carboplatin mỗi 3 tuần, tổng cộng 6 chu kỳ như điều trị bổ trợ có thể được thực hiện ở ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn sớm; cisplatin có thể thay thế cho carboplatin. Khuyến cáo về số chu kỳ điều trị thay đổi tùy theo giai đoạn của bệnh; bệnh giai đoạn sớm (giai đoạn I) được điều trị 3 đến 6 chu kỳ trong khi giai đoạn tiến xa (II-IV) được điều trị 6 chu kỳ.
Phác đồ điều trị chính được khuyến cáo cho bệnh giai đoạn I
Đối với bệnh giai đoạn 1, các phác đồ ưu tiên bao gồm:
Đối với bệnh giai đoạn II đến IV, các phác đồ ưu tiên bao gồm:
Phác đồ truyền tĩnh mạch được khuyến cáo có các hồ sơ độc tính khác nhau như sau:
Liệu pháp toàn thân trong phúc mạc cho phép đưa thuốc đến vị trí bệnh, đồng thời giảm thiểu độc tính toàn thân. Liệu pháp này được khuyến cáo cho tất cả bệnh nhân giai đoạn III có bệnh đã được phẫu thuật giảm tế bào bướu tối ưu (kích thước bướu tồn lưu <1 cm). Bệnh nhân giai đoạn II đã được phẫu thuật giảm tế bào bướu tối ưu cũng có thể được hóa trị trong phúc mạc.
Phác đồ khuyến cáo bao gồm cisplatin vào ngày 2 sau khi truyền tĩnh mạch paclitaxel vào ngày 1, sau đó paclitaxel trong phúc mạc vào ngày 8, mỗi 3 tuần, tổng cộng 6 chu kỳ; và carboplatin trong phúc mạc cùng với paclitaxel tĩnh mạch vào ngày 1, sau đó truyền tĩnh mạch paclitaxel vào ngày 8 và ngày 15, mỗi 3 tuần, tổng cộng 6-8 chu kỳ. Carboplatin trong phúc mạc cùng với paclitaxel tĩnh mạch vào ngày 1, sau đó paclitaxel trong phúc mạc vào ngày 8 là một lựa chọn điều trị cho những bệnh nhân đã được hóa trị tân bổ trợ và phẫu thuật giảm bướu gian kỳ.
Những phụ nữ không thể hoàn tất liệu pháp trong phúc mạc nên được điều trị qua tĩnh mạch. Biến chứng về ống thông, buồn nôn, nôn, mất nước hoặc đau bụng là những nguyên nhân phổ biến thường gặp khiến bệnh nhân phải ngừng điều trị trong phúc mạc.
Ung thư biểu mô buồng trứng giáp biên
Liêu pháp nội tiết là lựa chọn hóa trị bổ sung bao gồm chất ức chế aromatase (anastrozole, letrozole), leuprolide và tamoxifen.
Liệu pháp duy trì cho giai đoạn II-IV sau điều trị nguyên phát
Các lựa chọn điều trị được khuyến cáo phụ thuộc vào giai đoạn bệnh, tác nhân điều trị toàn thân nguyên phát trước đó được sử dụng, đáp ứng với điều trị nguyên phát và tình trạng đột biến BRCA1/2.
Bệnh nhân không dùng bevacizumab trong quá trình điều trị nguyên phát:
Bệnh nhân có bướu phôi hoặc xoang nội bì, bướu nghịch mầm giai đoạn II-IV hoặc giai đoạn I grade 2-3, hoặc bướu quái thai chưa trưởng thành giai đoạn II-IV nên được hóa trị sau phẫu thuật với bleomycin/etoposide/cisplatin trong 3-4 chu kỳ.
Ở một số bệnh nhân có bướu nghịch mầm giai đoạn II-III cần thiết giảm thiểu độc tính, có thể sử dụng ba đợt phối hợp etoposide/carboplatin: carboplatin vào ngày 1 kết hợp với etoposide vào ngày 1-3 mỗi 4 tuần, tổng cộng 3 chu kỳ.
Liệu pháp toàn thân cho ung thư buồng trứng mô đệm-dây sinh dục
Đối với những bệnh nhân giai đoạn II-IV, phác đồ paclitaxel/carboplatin được ưu tiên. Etoposide/cisplatin là một phác đồ khác được khuyến cáo và phác đồ bleomycin/etoposide/cisplatin có thể hữu ích trong một số trường hợp nhất định.
Hóa trị dựa trên platinum nên được cân nhắc cho những bệnh nhân giai đoạn 1 nguy cơ cao (giai đoạn IC, bướu kém biệt hóa, kích thước bướu >10 đến 15 cm, vỡ bướu). Những bệnh nhân giai đoạn II-IV giới hạn nên được xạ trị.
Liệu pháp cho ung thư biểu mô buồng trứng tái phát
Liệu pháp gây độc tế bào
Có thể áp dụng liệu pháp hóa trị kết hợp dựa trên platinum như sau:
Bevacizumab là tác nhân được ưu tiên, đã được chứng minh làm chậm sự phát triển ung thư buồng trứng tiến xa. Thuốc được khuyến cáo cho bệnh nhân tái phát, kháng platinum, có tiền căn sử dụng ≤2 phác đồ hóa trị trước đó, được dùng kết hợp với paclitaxel, doxorubicin dạng liposom pegylat hóa hoặc topotecan. Thuốc có thể được sử dụng như điều trị duy trì cho những bệnh nhân giai đoạn II-IV có đột biến BRCA1/2 kiểu hoang dã hoặc chưa xác định, có đáp ứng với hóa trị tái phát ban đầu, cho đến khi bệnh tiến triển hoặc độc tính không thể chấp nhận được.
Liệu pháp duy trì kết hợp olaparib/bevacizumab có thể được cân nhắc ở những bệnh nhân có đột biến BRCA1/2 hoặc bất ổn định bộ gen, trước đó đã được dùng hóa trị dựa trên platimun có bevacizumab. Olaparib có thể được dùng cho những bệnh nhân ung thư buồng trứng tiến xa có đột biến BRCA dòng mầm, với đáp ứng hoàn toàn hoặc một phần sau ≥2 bước hóa trị. Mirvetuximab soravtansine-gynx được ưu tiên cho bướu tái phát và kháng platinum, có biểu hiện thụ thể folate alpha (FRα).
Niraparib có thể được dùng cho bệnh nhân ung thư buồng trứng tiến xa có tái tổ hợp tương đồng (HR) dương tính đã trải qua ≥3 bước hóa trị. Rucaparib có thể được dùng cho bệnh nhân ung thư buồng trứng tiến xa có đột biến BRCA dòng mầm và/hoặc thể sinh dưỡng đã trải qua ≥2 bước hóa trị.
Các thuốc ức chế PARP olaparib, niraparib và rucaparib là các lựa chọn điều trị duy trì cho bệnh nhân tái phát có đáp ứng hoàn toàn hoặc một phần với hóa trị dựa trên platinum. Liệu pháp duy trì niraparib hoặc rucaparib là một lựa chọn cho bệnh nhân có đột biến BRCA1/2 kiểu hoang dã hoặc chưa xác định.
Các tác nhân khác
Các tác nhân điều trị khác cho bệnh tái phát bao gồm capecitabine, carboplatin, carboplatin/docetaxel, phối hợp carboplatin/paclitaxel hàng tuần, cyclophosphamide, doxorubicin, liệu pháp nội tiết (ví dụ chất ức chế aromatase, goserelin acetate, leuprolide acetate, megestrol acetate, tamoxifen), ifosfamide, irinotecan, melphalan, niraparib, olaparib, oxaliplatin, paclitaxel, paclitaxel gắn kết albumin, pazopanib, pemetrexed, rucaparib và vinorelbine. Cisplatin hoặc niraparib/bevacizumab cũng có thể được sử dụng cho bệnh còn nhạy với platinum. Carboplatin/gemcitabine có hoặc không có bevacizumab, carboplatin/doxorubicin dạng liposom có hoặc không có bevacizumab, carboplatin/paclitaxel có hoặc không có bevacizumab, cyclophosphamide dạng uống /pembrolizumab/bevacizumab, gemcitabine/bevacizumab, gemcitabine/cisplatin, ixabepilone/bevacizumab và sorafenib/topotecan cũng có thể được sử dụng cho bệnh kháng platinum.
Các tác nhân khác được cân nhắc trong một số trường hợp nhất định bao gồm::
Điều trị được khuyến cáo ở những bệnh nhân bị bệnh tái phát hoặc còn bướu tồn lưu sau nhiều phác đồ hóa trị mà không có lựa chọn chữa khỏi nào khả thi. Các lựa chọn ưu tiên có khả năng chữa khỏi là hóa trị liều cao kết hợp với ghép tế bào gốc tạo máu (HCT) hoặc paclitaxel/ifosfamide/cisplatin (TIP).
Các lựa chọn được khuyến cáo khác chỉ dùng để làm giảm nhẹ, có thể bao gồm vincristine/dactinomycin/cyclophosphamide (VAC), vinblastine/ifosfamide/cisplatin (VeIP), etoposide/ifosfamide/cisplatin (VIP), cisplatin/etoposide (nếu chưa sử dụng trước đó), docetaxel/carboplatin, gemcitabine/paclitaxel/oxaliplatin, gemcitabine/oxaliplatin, paclitaxel/carboplatin, paclitaxel/gemcitabine, paclitaxel/ifosfamide, pembrolizumab (nếu có MSI-H/dMMR hoặc TMB-H), etoposide đường uống, docetaxel, paclitaxel, xạ trị hoặc chăm sóc nâng đỡ. Không khuyến cáo dùng hóa trị phối hợp cho những bệnh nhân bị bệnh tái phát hoặc còn bướu tồn lưu không còn lựa chọn chữa khỏi. Hóa trị dựa trên ifosfamide/platinum có hoặc không có paclitaxel nên được xem là lựa chọn bước hai cho những bệnh nhân bị bệnh tái phát còn nhạy với platinum, có bệnh tiến triển xảy ra >4 đến 6 tuần sau khi hoàn thành điều trị nguyên phát.
Điều trị ung thư buồng trứng mô đệm-dây sinh dục tái phát
Đối với điều trị ung thư buồng trứng mô đệm-dây sinh dục tái phát, phác đồ ưu tiên là paclitaxel/carboplatin. Các phác đồ được khuyến cáo khác bao gồm bevacizumab, docetaxel, etoposide/cisplatin (nếu chưa sử dụng trước đó), paclitaxel, paclitaxel/ifosfamide hoặc chăm sóc nâng đỡ.
Các phác đồ khác có thể hữu ích trong một số trường hợp nhất định bao gồm:
Hóa trị tân bổ trợ cho ung thư biểu mô buồng trứng
Hóa trị tân bổ trợ nên được cân nhắc ở những bệnh nhân ung thư buồng trứng giai đoạn tiến xa không phù hợp với phẫu thuật giảm trước tế bào bướu nguyên phát do tuổi cao, suy nhược, chỉ số hoạt động kém, bệnh đi kèm, hoặc mắc các bệnh không có khả năng phẫu thuật giảm tế bào bướu tối ưu. Các phác đồ hóa trị tân bổ trợ được khuyến cáo bao gồm paclitaxel/carboplatin, paclitaxel/carboplatin liều dày, docetaxel/carboplatin, carboplatin/doxorubicin liposome pegylated và paclitaxel/carboplatin/bevacizumab. Các phác đồ có bevacizumab nên được sử dụng thận trọng trước phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ (IDS) do ảnh hưởng đến quá trình lành vết thương sau phẫu thuật. Nếu được sử dụng như một phần của liệu pháp tân bổ trợ, nên ngừng bevacizumab ít nhất 6 tuần trước khi phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ.
Hóa trị trong phúc mạc nhiệt độ cao (HIPEC) có thể được cân nhắc ở những bệnh nhân giai đoạn III đang được điều trị tân bổ trợ tại thời điểm phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ. Đây là thủ thuật trong đó hóa trị được thực hiện trong dung dịch được làm nóng, truyền vào khoang phúc mạc, làm tăng tính thâm nhập của hóa trị vào bề mặt phúc mạc, và tăng độ nhạy cảm của tế bào ung thư với hóa trị. Đây là một lựa chọn cho những bệnh nhân giai đoạn III có đáp ứng hoặc bệnh ổn định sau ba chu kỳ điều trị tân bổ trợ. Thuốc được khuyến cáo cho hóa trị trong phúc mạc nhiệt độ cao là cisplatin.
Liệu pháp toàn thân cho ung thư biểu mô buồng trứng
Hầu hết bệnh nhân nên được điều trị hóa trị toàn thân sau phẫu thuật. Sau khi phẫu thuật giảm tế bào bướu, hóa trị dựa trên platinum là phương pháp điều trị được lựa chọn cho những bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng tiến xa, được bắt đầu trong vòng 6 tuần sau phẫu thuật. Đơn trị liệu bằng carboplatin mỗi 3 tuần, tổng cộng 6 chu kỳ như điều trị bổ trợ có thể được thực hiện ở ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn sớm; cisplatin có thể thay thế cho carboplatin. Khuyến cáo về số chu kỳ điều trị thay đổi tùy theo giai đoạn của bệnh; bệnh giai đoạn sớm (giai đoạn I) được điều trị 3 đến 6 chu kỳ trong khi giai đoạn tiến xa (II-IV) được điều trị 6 chu kỳ.
Phác đồ điều trị chính được khuyến cáo cho bệnh giai đoạn I
Đối với bệnh giai đoạn 1, các phác đồ ưu tiên bao gồm:
- Paclitaxel/carboplatin
- Có hoặc không có duy trì letrozole hoặc liệu pháp nội tiết khác (ví dụ anastrozole, exemestane, goserelin acetate, leuprolide acetate, tamoxifen): Thanh dịch grade thấp (giai đoạn IC) hoặc dạng nội mạc tử cung grade 1 (giai đoạn IC)
- Fluorouracil (5-FU)/leucovorin/oxaliplatin: Ung thư biểu mô dịch nhầy giai đoạn IC
- Capecitabine/oxaliplatin: Ung thư biểu mô dịch nhầy giai đoạn IC
- Liệu pháp nội tiết (ví dụ anastrozole, letrozole, exemestane): Thanh dịch grade thấp (giai đoạn IC) hoặc dạng nội mạc tử cung grade I (giai đoạn IC)
- Carboplatin/liposomal doxorubicin
- Có hoặc không có duy trì letrozole hoặc liệu pháp nội tiết khác (ví dụ anastrozole, exemestane, goserelin acetate, leuprolide acetate, tamoxifen): Thanh dịch grade thấp (giai đoạn IC) hoặc dạng nội mạc tử cung grade 1 (giai đoạn IC)
- Docetaxel/carboplatin
- Có hoặc không có duy trì letrozole hoặc liệu pháp nội tiết khác (ví dụ anastrozole, exemestane, goserelin acetate, leuprolide acetate, tamoxifen): Thanh dịch grade thấp (giai đoạn IC) hoặc dạng nội mạc tử cung grade 1 (giai đoạn IC)
- Carboplatin hoặc cisplatin hoặc paclitaxel kết hợp với ifosfamide: Đối với carcinosarcoma
- Paclitaxel/cisplatin
Đối với bệnh giai đoạn II đến IV, các phác đồ ưu tiên bao gồm:
- Paclitaxel/carboplatin
- Paclitaxel/carboplatin/bevacizumab kết hợp với duy trì bevacizumab
- Thuốc tương tự sinh học bevacizumab (ví dụ bevacizumab-awwb, bevacizumab-bvzr) có thể được sử dụng thay cho bevacizumab
- Liệu pháp duy trì bằng bevacizumab đơn trị chỉ được khuyến cáo cho những bệnh nhân không tiến triển sau 6 chu kỳ điều trị paclitaxel/carboplatin/bevacizumab trước đó
- 5-FU/leucovorin/oxaliplatin có hoặc không có bevacizumab: Ung thư biểu mô dịch nhầy
- Capecitabine/oxaliplatin có hoặc không có bevacizumab: Ung thư biểu mô dịch nhầy
- Paclitaxel/carboplatin có hoặc không có duy trì letrozole hoặc liệu pháp hormone khác (chất ức chế aromatase, goserelin acetate, leuprolide acetate, tamoxifen): Thanh dịch grade thấp hoặc dạng nội mạc tử cung grade I
- Liệu pháp nội tiết (ví dụ anastrozole, letrozole, exemestane): Thanh dịch grade thấp hoặc dạng nội mạc tử cung grade I
- Paclitaxel hàng tuần/carboplatin hàng tuần
- Docetaxel/carboplatin
- Có hoặc không có liệu pháp duy trì letrozole hoặc liệu pháp nội tiết khác (ví dụ chất ức chế aromatase, goserelin acetate, leuprolide acetate, tamoxifen): Thanh dịch grade thấp hoặc dạng nội mạc tử cung grade I
- Carboplatin/liposomal doxorubicin
- Có hoặc không có liệu pháp duy trì letrozole hoặc liệu pháp nội tiết khác (ví dụ chất ức chế aromatase, goserelin acetate, leuprolide acetate, tamoxifen): Thanh dịch grade thấp hoặc dạng nội mạc tử cung grade I
- Paclitaxel hàng tuần/carboplatin mỗi 3 tuần
- Docetaxel/carboplatin/bevacizumab kết hợp với duy trì bevacizumab
- Liệu pháp nội tiết (ví dụ fulvestrant, goserelin acetate, leuprolide acetate, tamoxifen): Thanh dịch grade thấp hoặc dạng nội mạc tử cung grade I
- Paclitaxel/cisplatin
- Docetaxel/oxaliplatin/bevacizumab với duy trì bevacizumab
- Paclitaxel/cisplatin tiêm phúc mạc (IP) hoặc IV: Đối với bệnh giai đoạn II đến III đã được phẫu thuật giảm tế bào bướu tối ưu
- Carboplatin hoặc cisplatin hoặc paclitaxel cộng với ifosfamide: Đối với carcinosarcoma
Phác đồ truyền tĩnh mạch được khuyến cáo có các hồ sơ độc tính khác nhau như sau:
- Paclitaxel sau đó carboplatin mỗi 3 tuần, tổng cộng 3 đến 6 chu kỳ (phác đồ ưu tiên)
- Paclitaxel sau đó carboplatin hàng tuần trong 18 tuần
- Paclitaxel sau đó cisplatin mỗi 3 tuần, tổng cộng 3-9 chu kỳ
- Paclitaxel liều dày vào ngày 1, 8 và 15 kết hợp với carboplatin vào ngày 1, mỗi 3 tuần, tổng cộng 6 chu kỳ
- Docetaxel sau đó carboplatin mỗi 3 tuần, tổng cộng 3 đến 6 chu kỳ
- Carboplatin kết hợp với pegylated liposomal doxorubicin mỗi 4 tuần, tổng cộng 3 đến 6 chu kỳ
- Paclitaxel sau đó carboplatin và bevacizumab mỗi 3 tuần, tổng cộng 5 đến 6 chu kỳ
- Tiếp tục bevacizumab tối đa thêm 12 chu kỳ
- Paclitaxel sau đó carboplatin mỗi 3 tuần, tổng cộng 6 chu kỳ; thêm bevacizumab vào chu kỳ 2
- Tiếp tục bevacizumab đến 22 chu kỳ
- Docetaxel sau đó oxaliplatin và bevacizumab mỗi 3 tuần, tổng cộng 6 chu kỳ
- Tiếp tục bevacizumab mỗi 3 tuần đến khi đủ 1 năm
- Docetaxel sau đó carboplatin mỗi 3 tuần, tổng cộng 6 chu kỳ; thêm bevacizumab vào chu kỳ 2
- Tiếp tục bevacizumab đến 22 chu kỳ
Liệu pháp toàn thân trong phúc mạc cho phép đưa thuốc đến vị trí bệnh, đồng thời giảm thiểu độc tính toàn thân. Liệu pháp này được khuyến cáo cho tất cả bệnh nhân giai đoạn III có bệnh đã được phẫu thuật giảm tế bào bướu tối ưu (kích thước bướu tồn lưu <1 cm). Bệnh nhân giai đoạn II đã được phẫu thuật giảm tế bào bướu tối ưu cũng có thể được hóa trị trong phúc mạc.
Phác đồ khuyến cáo bao gồm cisplatin vào ngày 2 sau khi truyền tĩnh mạch paclitaxel vào ngày 1, sau đó paclitaxel trong phúc mạc vào ngày 8, mỗi 3 tuần, tổng cộng 6 chu kỳ; và carboplatin trong phúc mạc cùng với paclitaxel tĩnh mạch vào ngày 1, sau đó truyền tĩnh mạch paclitaxel vào ngày 8 và ngày 15, mỗi 3 tuần, tổng cộng 6-8 chu kỳ. Carboplatin trong phúc mạc cùng với paclitaxel tĩnh mạch vào ngày 1, sau đó paclitaxel trong phúc mạc vào ngày 8 là một lựa chọn điều trị cho những bệnh nhân đã được hóa trị tân bổ trợ và phẫu thuật giảm bướu gian kỳ.
Những phụ nữ không thể hoàn tất liệu pháp trong phúc mạc nên được điều trị qua tĩnh mạch. Biến chứng về ống thông, buồn nôn, nôn, mất nước hoặc đau bụng là những nguyên nhân phổ biến thường gặp khiến bệnh nhân phải ngừng điều trị trong phúc mạc.
Ung thư biểu mô buồng trứng giáp biên
Liêu pháp nội tiết là lựa chọn hóa trị bổ sung bao gồm chất ức chế aromatase (anastrozole, letrozole), leuprolide và tamoxifen.
Liệu pháp duy trì cho giai đoạn II-IV sau điều trị nguyên phát
Các lựa chọn điều trị được khuyến cáo phụ thuộc vào giai đoạn bệnh, tác nhân điều trị toàn thân nguyên phát trước đó được sử dụng, đáp ứng với điều trị nguyên phát và tình trạng đột biến BRCA1/2.
Bệnh nhân không dùng bevacizumab trong quá trình điều trị nguyên phát:
- Có đột biến BRCA1/2 hoang dã hoặc chưa xác định, có đáp ứng hoàn toàn hoặc một phần: niraparib hoặc rucaparib
- Có đột biến BRCA1/2 dòng mầm hoặc thể sinh dưỡng, có đáp ứng hoàn toàn hoặc một phần: olaparib hoặc niraparib hoặc rucaparib
- Có đột biến BRCA1/2 hoang dã hoặc chưa xác định, có đáp ứng hoàn toàn hoặc một phần
- Tái tổ hợp tương đồng bình thường hoặc chưa biết: bevacizumab
- Thiếu hụt tái tổ hợp tương đồng: bevacizumab có hoặc không có olaparib hoặc niraparib
- Có đột biến BRCA1/2 dòng mầm hoặc thể sinh dưỡng, có đáp ứng hoàn toàn hoặc một phần: bevacizumab với olaparib hoặc niraparib, hoặc đơn trị bằng olaparib hoặc niraparib hoặc rucaparib
Bệnh nhân có bướu phôi hoặc xoang nội bì, bướu nghịch mầm giai đoạn II-IV hoặc giai đoạn I grade 2-3, hoặc bướu quái thai chưa trưởng thành giai đoạn II-IV nên được hóa trị sau phẫu thuật với bleomycin/etoposide/cisplatin trong 3-4 chu kỳ.
Ở một số bệnh nhân có bướu nghịch mầm giai đoạn II-III cần thiết giảm thiểu độc tính, có thể sử dụng ba đợt phối hợp etoposide/carboplatin: carboplatin vào ngày 1 kết hợp với etoposide vào ngày 1-3 mỗi 4 tuần, tổng cộng 3 chu kỳ.
Liệu pháp toàn thân cho ung thư buồng trứng mô đệm-dây sinh dục
Đối với những bệnh nhân giai đoạn II-IV, phác đồ paclitaxel/carboplatin được ưu tiên. Etoposide/cisplatin là một phác đồ khác được khuyến cáo và phác đồ bleomycin/etoposide/cisplatin có thể hữu ích trong một số trường hợp nhất định.
Hóa trị dựa trên platinum nên được cân nhắc cho những bệnh nhân giai đoạn 1 nguy cơ cao (giai đoạn IC, bướu kém biệt hóa, kích thước bướu >10 đến 15 cm, vỡ bướu). Những bệnh nhân giai đoạn II-IV giới hạn nên được xạ trị.
Liệu pháp cho ung thư biểu mô buồng trứng tái phát
Liệu pháp gây độc tế bào
Có thể áp dụng liệu pháp hóa trị kết hợp dựa trên platinum như sau:
- Ưu tiên cho lần tái phát đầu tiên ở những bệnh nhân còn nhạy với platinum (là những bệnh nhân tái phát ≥6 tháng sau lần hóa trị ban đầu)
- Quyết định về việc sử dụng kết hợp nào nên dựa trên độc tính gặp phải khi điều trị ban đầu, mong muốn của bệnh nhân và các yếu tố khác
- Các tác nhân ưu tiên cho bệnh còn nhạy với platinum bao gồm:
- Carboplatin/paclitaxel có hoặc không có bevacizumab
- Carboplatin/gemcitabine có hoặc không có bevacizumab
- Carboplatin/liposomal doxorubicin có hoặc không có bevacizumab
- Cisplatin/gemcitabine
- Docetaxel
- Etoposide uống
- Gemcitabine
- Doxorubicin dạng liposom
- Paclitaxel hàng tuần
- Topotecan
- Topotecan/bevacizumab
- Trabectedin/doxorubicin dạng liposom pegylat hóa: Được chấp thuận tại châu Âu cho bệnh nhân tái phát >6 tháng sau lần điều trị platinum cuối
- Paclitaxel hàng tuần/bevacizumab
- Doxorubicin dạng liposom/bevacizumab
- Cyclophosphamide uống /bevacizumab
Bevacizumab là tác nhân được ưu tiên, đã được chứng minh làm chậm sự phát triển ung thư buồng trứng tiến xa. Thuốc được khuyến cáo cho bệnh nhân tái phát, kháng platinum, có tiền căn sử dụng ≤2 phác đồ hóa trị trước đó, được dùng kết hợp với paclitaxel, doxorubicin dạng liposom pegylat hóa hoặc topotecan. Thuốc có thể được sử dụng như điều trị duy trì cho những bệnh nhân giai đoạn II-IV có đột biến BRCA1/2 kiểu hoang dã hoặc chưa xác định, có đáp ứng với hóa trị tái phát ban đầu, cho đến khi bệnh tiến triển hoặc độc tính không thể chấp nhận được.
Liệu pháp duy trì kết hợp olaparib/bevacizumab có thể được cân nhắc ở những bệnh nhân có đột biến BRCA1/2 hoặc bất ổn định bộ gen, trước đó đã được dùng hóa trị dựa trên platimun có bevacizumab. Olaparib có thể được dùng cho những bệnh nhân ung thư buồng trứng tiến xa có đột biến BRCA dòng mầm, với đáp ứng hoàn toàn hoặc một phần sau ≥2 bước hóa trị. Mirvetuximab soravtansine-gynx được ưu tiên cho bướu tái phát và kháng platinum, có biểu hiện thụ thể folate alpha (FRα).
Niraparib có thể được dùng cho bệnh nhân ung thư buồng trứng tiến xa có tái tổ hợp tương đồng (HR) dương tính đã trải qua ≥3 bước hóa trị. Rucaparib có thể được dùng cho bệnh nhân ung thư buồng trứng tiến xa có đột biến BRCA dòng mầm và/hoặc thể sinh dưỡng đã trải qua ≥2 bước hóa trị.
Các thuốc ức chế PARP olaparib, niraparib và rucaparib là các lựa chọn điều trị duy trì cho bệnh nhân tái phát có đáp ứng hoàn toàn hoặc một phần với hóa trị dựa trên platinum. Liệu pháp duy trì niraparib hoặc rucaparib là một lựa chọn cho bệnh nhân có đột biến BRCA1/2 kiểu hoang dã hoặc chưa xác định.
Các tác nhân khác
Các tác nhân điều trị khác cho bệnh tái phát bao gồm capecitabine, carboplatin, carboplatin/docetaxel, phối hợp carboplatin/paclitaxel hàng tuần, cyclophosphamide, doxorubicin, liệu pháp nội tiết (ví dụ chất ức chế aromatase, goserelin acetate, leuprolide acetate, megestrol acetate, tamoxifen), ifosfamide, irinotecan, melphalan, niraparib, olaparib, oxaliplatin, paclitaxel, paclitaxel gắn kết albumin, pazopanib, pemetrexed, rucaparib và vinorelbine. Cisplatin hoặc niraparib/bevacizumab cũng có thể được sử dụng cho bệnh còn nhạy với platinum. Carboplatin/gemcitabine có hoặc không có bevacizumab, carboplatin/doxorubicin dạng liposom có hoặc không có bevacizumab, carboplatin/paclitaxel có hoặc không có bevacizumab, cyclophosphamide dạng uống /pembrolizumab/bevacizumab, gemcitabine/bevacizumab, gemcitabine/cisplatin, ixabepilone/bevacizumab và sorafenib/topotecan cũng có thể được sử dụng cho bệnh kháng platinum.
Các tác nhân khác được cân nhắc trong một số trường hợp nhất định bao gồm::
- Ung thư biểu mô dịch nhầy: 5-FU/leucovorin/oxaliplatin có hoặc không có bevacizumab và capecitabine/oxaliplatin có hoặc không có bevacizumab
- Ung thư biểu mô tế bào sáng: irinotecan/cisplatin
- Bướu có BRAF V600E dương tính: dabrafenib kết hợp với tramatenib
- Bướu có biểu hiện FRα: mirvetuximab soravtansine-gynx/bevacizumab
- Bướu có HER2 dương tính (IHC3+ hoặc 2+): fam-trastuzumab deruxetecan-nxki
- Ung thư biểu mô có tổ hợp gen NTRK dương tính: entrectinib, larotrectinib hoặc repotrectinib
- Xác nhận quá mẫn cảm với taxane: carboplatin/paclitaxel liên kết albumin
- Ung thư biểu mô thanh dịch grade thấp: binimetinib, fulvestrant, trametinib
- Bướu có bất ổn vi vệ tinh cao (MSI-H) hoặc thiếu sửa chữa bắt cặp sai (dMMR) hoặc gánh nặng đột biến bướu cao (TMB-H) ≥10 đột biến/megabase: pembrolizumab
- Bướu tái phát hoặc tiến triển có MSI-H/dMMR: dostarlimab-gxly
- Bướu có tổ hợp gen RET dương tính: selpercatinib
- Dành cho bệnh nhân >70 tuổi: carboplatin/paclitaxel
Điều trị được khuyến cáo ở những bệnh nhân bị bệnh tái phát hoặc còn bướu tồn lưu sau nhiều phác đồ hóa trị mà không có lựa chọn chữa khỏi nào khả thi. Các lựa chọn ưu tiên có khả năng chữa khỏi là hóa trị liều cao kết hợp với ghép tế bào gốc tạo máu (HCT) hoặc paclitaxel/ifosfamide/cisplatin (TIP).
Các lựa chọn được khuyến cáo khác chỉ dùng để làm giảm nhẹ, có thể bao gồm vincristine/dactinomycin/cyclophosphamide (VAC), vinblastine/ifosfamide/cisplatin (VeIP), etoposide/ifosfamide/cisplatin (VIP), cisplatin/etoposide (nếu chưa sử dụng trước đó), docetaxel/carboplatin, gemcitabine/paclitaxel/oxaliplatin, gemcitabine/oxaliplatin, paclitaxel/carboplatin, paclitaxel/gemcitabine, paclitaxel/ifosfamide, pembrolizumab (nếu có MSI-H/dMMR hoặc TMB-H), etoposide đường uống, docetaxel, paclitaxel, xạ trị hoặc chăm sóc nâng đỡ. Không khuyến cáo dùng hóa trị phối hợp cho những bệnh nhân bị bệnh tái phát hoặc còn bướu tồn lưu không còn lựa chọn chữa khỏi. Hóa trị dựa trên ifosfamide/platinum có hoặc không có paclitaxel nên được xem là lựa chọn bước hai cho những bệnh nhân bị bệnh tái phát còn nhạy với platinum, có bệnh tiến triển xảy ra >4 đến 6 tuần sau khi hoàn thành điều trị nguyên phát.
Điều trị ung thư buồng trứng mô đệm-dây sinh dục tái phát
Đối với điều trị ung thư buồng trứng mô đệm-dây sinh dục tái phát, phác đồ ưu tiên là paclitaxel/carboplatin. Các phác đồ được khuyến cáo khác bao gồm bevacizumab, docetaxel, etoposide/cisplatin (nếu chưa sử dụng trước đó), paclitaxel, paclitaxel/ifosfamide hoặc chăm sóc nâng đỡ.
Các phác đồ khác có thể hữu ích trong một số trường hợp nhất định bao gồm:
- Bleomycin/etoposide/cisplatin (nếu chưa sử dụng trước đó)
- Thuốc ức chế aromatase (ví dụ anastrozole, exemestane, letrozole)
- Goserelin acetate hoặc leuprolide acetate có thể được sử dụng cho bướu tế bào hạt
- Tamoxifen
- VAC
Điều trị không dùng thuốc
Theo dõi
Theo dõi sau phẫu thuật là lựa chọn cho những bệnh nhân đã xác nhận giai đoạn IA/B. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng một số bệnh nhân chọn lọc, ung thư buồng trứng giai đoạn I có tỷ lệ sống còn >90% chỉ với điều trị phẫu thuật, và không có lợi ích lâm sàng nào được chứng minh từ hóa trị bổ trợ đối với những bệnh nhân đã được phẫu thuật xếp giai đoạn hoàn chỉnh đối với bệnh có nguy cơ thấp ở một số loại ung thư nhất định. Chỉ nên cân nhắc điều trị ở những bệnh nhân đã phẫu thuật cắt bỏ và phẫu thuật xếp giai đoạn hoàn chỉnh, để loại trừ khả năng bệnh tiềm ẩn trên lâm sàng có thể dẫn đến việc tăng giai đoạn.
Theo dõi có thể là lựa chọn cho các loại ung thư biểu mô ít phổ biến hơn (ví dụ như dịch nhầy, tế bào sáng, nội mạc tử cung grade 1, thanh dịch grade thấp) khi liệu pháp toàn thân bổ trợ không cho thấy lợi ích. Đây có thể là một lựa chọn duy trì cho những bệnh nhân giai đoạn II mà không dùng bevacizumab trong quá trình điều trị nguyên phát, có đột biến BRCA1/2 dòng mầm hoặc thể sinh dưỡng, hoặc đột biến kiểu hoang dã hoặc chưa xác định, với đáp ứng hoàn toàn.
Theo dõi sau phẫu thuật là lựa chọn cho những bệnh nhân đã xác nhận giai đoạn IA/B. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng một số bệnh nhân chọn lọc, ung thư buồng trứng giai đoạn I có tỷ lệ sống còn >90% chỉ với điều trị phẫu thuật, và không có lợi ích lâm sàng nào được chứng minh từ hóa trị bổ trợ đối với những bệnh nhân đã được phẫu thuật xếp giai đoạn hoàn chỉnh đối với bệnh có nguy cơ thấp ở một số loại ung thư nhất định. Chỉ nên cân nhắc điều trị ở những bệnh nhân đã phẫu thuật cắt bỏ và phẫu thuật xếp giai đoạn hoàn chỉnh, để loại trừ khả năng bệnh tiềm ẩn trên lâm sàng có thể dẫn đến việc tăng giai đoạn.
Theo dõi có thể là lựa chọn cho các loại ung thư biểu mô ít phổ biến hơn (ví dụ như dịch nhầy, tế bào sáng, nội mạc tử cung grade 1, thanh dịch grade thấp) khi liệu pháp toàn thân bổ trợ không cho thấy lợi ích. Đây có thể là một lựa chọn duy trì cho những bệnh nhân giai đoạn II mà không dùng bevacizumab trong quá trình điều trị nguyên phát, có đột biến BRCA1/2 dòng mầm hoặc thể sinh dưỡng, hoặc đột biến kiểu hoang dã hoặc chưa xác định, với đáp ứng hoàn toàn.
Phẫu thuật
Phẫu thuật ung thư biểu mô buồng trứng
Phương pháp điều trị chính cho ung thư buồng trứng bao gồm phẫu thuật xếp giai đoạn thích hợp và giảm tế bào bướu, sau đó là hóa trị toàn thân ở hầu hết bệnh nhân.
Phẫu thuật ban đầu nên là phẫu thuật nội soi ổ bụng xếp giai đoạn toàn diện, bao gồm cắt bỏ toàn bộ tử cung qua đường bụng (TAH), cắt bỏ buồng trứng và vòi trứng hai bên (BSO). Phẫu thuật này được khuyến cáo cho bệnh nhân mắc ung thư buồng trứng giai đoạn IA-IV nếu có thể giảm tế bào bướu tối ưu, không lo ngại về chức năng sinh sản và bệnh nhân phù hợp với phẫu thuật. Phẫu thuật nội soi ổ bụng là lựa chọn phẫu thuật tiêu chuẩn trong điều trị và xếp giai đoạn cho bệnh nhân ung thư buồng trứng giai sớm rõ ràng. Các kỹ thuật xâm lấn tối thiểu có thể là một lựa chọn trong giai đoạn sớm của bệnh để đạt được mục tiêu phẫu thuật ở những bệnh nhân được lựa chọn, nếu được thực hiện bởi bác sĩ phẫu thuật phụ khoa có kinh nghiệm.
Nên thực hiện cắt mạc nối, rửa phúc mạc, sinh thiết phúc mạc, đánh giá toàn bộ khoang bụng và đánh giá sau phúc mạc liên quan đến cả vùng chậu và vùng quanh động mạch chủ. Đối với những bệnh nhân muốn duy trì chức năng sinh sản, phẫu thuật cắt bỏ vòi trứng-buồng trứng một bên (USO) hoặc cắt bỏ vòi trứng-buồng trứng hai bên có thể phù hợp với những bệnh nhân trẻ, giai đoạn IA và IB và/hoặc nguy cơ thấp (giai đoạn sớm, bướu xâm lấn grade thấp, tổn thương có khả năng ác tính thấp, bướu tế bào mầm hoặc khối bướu mô đệm-dây sinh dục ác tính).
Phẫu thuật giảm tế bào bướu
Phẫu thuật giảm tế bào bướu là khuyến cáo điều trị ban đầu cho bệnh nhân có giai đoạn II, III hoặc IV trên lâm sàng. Phẫu thuật giảm tế bào bướu được khuyến cáo cho tất cả bệnh nhân giai đoạn II đến IV với bướu tồn lưu có thể cắt được. Đây là phương pháp điều trị tối ưu nếu các nốt bướu tồn lưu có đường kính hoặc độ dày tối đa dưới 1 cm.
Phẫu thuật cắt rộng các tổn thương di căn buồng trứng ở vùng bụng trên được khuyến cáo cho các bệnh nhân có thể chịu được phẫu thuật này. Các thủ thuật có thể được cân nhắc để giảm tế bào bướu tối ưu (ở mọi giai đoạn) bao gồm cắt bỏ ruột, cắt bỏ cơ hoành hoặc bề mặt phúc mạc khác, cắt lách, cắt bỏ một phần gan, cắt bỏ túi mật, cắt bỏ một phần dạ dày hoặc cắt bỏ bàng quang, nối niệu quản-bàng quang, cắt đoạn xa của tụy hoặc cắt ruột thừa.
Giảm tế bào bướu thứ phát
Giảm tế bào bướu thứ phát được cân nhắc ở những bệnh nhân ung thư buồng trứng tái phát >6 tháng kể từ khi hoàn thành hóa trị ban đầu, có chỉ số hoạt động tốt, không báng bụng và có các ổ tổn thương giới hạn có thể cắt bỏ hoàn toàn.
Phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ (IDS)
Phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ nên bao gồm cắt bỏ hoàn toàn tử cung, vòi trứng, buồng trứng với xếp giai đoạn toàn diện. Nên thực hiện phẫu thuật này ở những bệnh nhân đáp ứng với ba đến bốn chu kỳ hóa trị tân bổ trợ, hoặc ở những bệnh nhân có bệnh ổn định. Đánh giá về khả năng phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ nên được thực hiện sau ba đến bốn chu kỳ hóa trị tân bổ trợ. Phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ với cắt bỏ hoàn toàn tử cung, vòi trứng, buồng trứng hai bên và giảm tế bào bướu nên được thực hiện ở những bệnh nhân đáp ứng với liệu pháp tân bổ trợ.
Những bệnh nhân có bệnh ổn định sau ba đến bốn chu kỳ hóa trị tân bổ trợ có thể cân nhắc phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ với cắt bỏ hoàn toàn tử cung, vòi trứng, buồng trứng hai bên và giảm tế bào bướu, hoặc chuyển sang điều trị bệnh dai dẳng hoặc tái phát, hoặc hóa trị tân bổ trợ thêm với tổng số ≥6 chu kỳ, sau đó đánh giá lại để xem xét khả năng thực hiện phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ hay chuyển sang điều trị bệnh dai dẳng hoặc tái phát.
Phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ nên được thực hiện sau ít nhất ba chu kỳ bổ sung của cùng một phác đồ hóa trị. Có thể thực hiện thông qua các thủ thuật xâm lấn tối thiểu ở một số bệnh nhân được lựa chọn, miễn là có thể đạt được giảm tế bào bướu tối ưu.
Phẫu thuật giảm nhẹ bổ trợ
Phẫu thuật giảm nhẹ bổ trợ có thể phù hợp ở một số bệnh nhân được lựa chọn và bao gồm chọc dò dịch màng phổi, làm dính màng phổi, nội soi lồng ngực có bổ trợ video hoặc đặt ống thông màng phổi, chọc dò dịch màng bụng hoặc đặt ống thông lưu phúc mạc, mở thận ra da hoặc sử dụng stent niệu quản, ống thông dạ dày, stent ruột hoặc phẫu thuật giải quyết tắc ruột.
Phẫu thuật bướu tế bào mầm ác tính
Phẫu thuật hoàn toàn với xếp giai đoạn được khuyến cáo là phẫu thuật ban đầu cho những bệnh nhân không mong muốn bảo tồn chức năng sinh sản. Phẫu thuật bảo tồn chức năng sinh sản nên được cân nhắc cho những người mong muốn bảo tồn chức năng sinh sản bất kể giai đoạn nào. Nên theo dõi bằng siêu âm nếu cần thiết. Phẫu thuật hoàn toàn nên được cân nhắc sau khi sinh đủ con.
Phẫu thuật ung thư buồng trứng mô đệm-dây sinh dục
Bệnh nhân có bướu mô đệm-dây sinh dục giai đoạn IA hoặc IC mong muốn bảo tồn chức năng sinh sản nên được điều trị bằng phẫu thuật bảo tồn chức năng sinh sản với xếp giai đoạn hoàn chỉnh. Nên theo dõi bằng siêu âm nếu cần thiết. Phẫu thuật hoàn tất nên được cân nhắc sau khi sinh đủ con.
Xếp giai đoạn hoàn chỉnh cũng được khuyến cáo cho tất cả các bệnh nhân khác, nhưng có thể không nạo hạch đối với các bướu còn giới hạn ở buồng trứng. Đối với bướu tế bào hạt di căn hoặc tái phát, nên phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ nếu khả thi.
Phương pháp điều trị chính cho ung thư buồng trứng bao gồm phẫu thuật xếp giai đoạn thích hợp và giảm tế bào bướu, sau đó là hóa trị toàn thân ở hầu hết bệnh nhân.
Phẫu thuật ban đầu nên là phẫu thuật nội soi ổ bụng xếp giai đoạn toàn diện, bao gồm cắt bỏ toàn bộ tử cung qua đường bụng (TAH), cắt bỏ buồng trứng và vòi trứng hai bên (BSO). Phẫu thuật này được khuyến cáo cho bệnh nhân mắc ung thư buồng trứng giai đoạn IA-IV nếu có thể giảm tế bào bướu tối ưu, không lo ngại về chức năng sinh sản và bệnh nhân phù hợp với phẫu thuật. Phẫu thuật nội soi ổ bụng là lựa chọn phẫu thuật tiêu chuẩn trong điều trị và xếp giai đoạn cho bệnh nhân ung thư buồng trứng giai sớm rõ ràng. Các kỹ thuật xâm lấn tối thiểu có thể là một lựa chọn trong giai đoạn sớm của bệnh để đạt được mục tiêu phẫu thuật ở những bệnh nhân được lựa chọn, nếu được thực hiện bởi bác sĩ phẫu thuật phụ khoa có kinh nghiệm.
Nên thực hiện cắt mạc nối, rửa phúc mạc, sinh thiết phúc mạc, đánh giá toàn bộ khoang bụng và đánh giá sau phúc mạc liên quan đến cả vùng chậu và vùng quanh động mạch chủ. Đối với những bệnh nhân muốn duy trì chức năng sinh sản, phẫu thuật cắt bỏ vòi trứng-buồng trứng một bên (USO) hoặc cắt bỏ vòi trứng-buồng trứng hai bên có thể phù hợp với những bệnh nhân trẻ, giai đoạn IA và IB và/hoặc nguy cơ thấp (giai đoạn sớm, bướu xâm lấn grade thấp, tổn thương có khả năng ác tính thấp, bướu tế bào mầm hoặc khối bướu mô đệm-dây sinh dục ác tính).
Phẫu thuật giảm tế bào bướu
Phẫu thuật giảm tế bào bướu là khuyến cáo điều trị ban đầu cho bệnh nhân có giai đoạn II, III hoặc IV trên lâm sàng. Phẫu thuật giảm tế bào bướu được khuyến cáo cho tất cả bệnh nhân giai đoạn II đến IV với bướu tồn lưu có thể cắt được. Đây là phương pháp điều trị tối ưu nếu các nốt bướu tồn lưu có đường kính hoặc độ dày tối đa dưới 1 cm.
Phẫu thuật cắt rộng các tổn thương di căn buồng trứng ở vùng bụng trên được khuyến cáo cho các bệnh nhân có thể chịu được phẫu thuật này. Các thủ thuật có thể được cân nhắc để giảm tế bào bướu tối ưu (ở mọi giai đoạn) bao gồm cắt bỏ ruột, cắt bỏ cơ hoành hoặc bề mặt phúc mạc khác, cắt lách, cắt bỏ một phần gan, cắt bỏ túi mật, cắt bỏ một phần dạ dày hoặc cắt bỏ bàng quang, nối niệu quản-bàng quang, cắt đoạn xa của tụy hoặc cắt ruột thừa.
Giảm tế bào bướu thứ phát
Giảm tế bào bướu thứ phát được cân nhắc ở những bệnh nhân ung thư buồng trứng tái phát >6 tháng kể từ khi hoàn thành hóa trị ban đầu, có chỉ số hoạt động tốt, không báng bụng và có các ổ tổn thương giới hạn có thể cắt bỏ hoàn toàn.
Phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ (IDS)
Phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ nên bao gồm cắt bỏ hoàn toàn tử cung, vòi trứng, buồng trứng với xếp giai đoạn toàn diện. Nên thực hiện phẫu thuật này ở những bệnh nhân đáp ứng với ba đến bốn chu kỳ hóa trị tân bổ trợ, hoặc ở những bệnh nhân có bệnh ổn định. Đánh giá về khả năng phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ nên được thực hiện sau ba đến bốn chu kỳ hóa trị tân bổ trợ. Phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ với cắt bỏ hoàn toàn tử cung, vòi trứng, buồng trứng hai bên và giảm tế bào bướu nên được thực hiện ở những bệnh nhân đáp ứng với liệu pháp tân bổ trợ.
Những bệnh nhân có bệnh ổn định sau ba đến bốn chu kỳ hóa trị tân bổ trợ có thể cân nhắc phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ với cắt bỏ hoàn toàn tử cung, vòi trứng, buồng trứng hai bên và giảm tế bào bướu, hoặc chuyển sang điều trị bệnh dai dẳng hoặc tái phát, hoặc hóa trị tân bổ trợ thêm với tổng số ≥6 chu kỳ, sau đó đánh giá lại để xem xét khả năng thực hiện phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ hay chuyển sang điều trị bệnh dai dẳng hoặc tái phát.
Phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ nên được thực hiện sau ít nhất ba chu kỳ bổ sung của cùng một phác đồ hóa trị. Có thể thực hiện thông qua các thủ thuật xâm lấn tối thiểu ở một số bệnh nhân được lựa chọn, miễn là có thể đạt được giảm tế bào bướu tối ưu.
Phẫu thuật giảm nhẹ bổ trợ
Phẫu thuật giảm nhẹ bổ trợ có thể phù hợp ở một số bệnh nhân được lựa chọn và bao gồm chọc dò dịch màng phổi, làm dính màng phổi, nội soi lồng ngực có bổ trợ video hoặc đặt ống thông màng phổi, chọc dò dịch màng bụng hoặc đặt ống thông lưu phúc mạc, mở thận ra da hoặc sử dụng stent niệu quản, ống thông dạ dày, stent ruột hoặc phẫu thuật giải quyết tắc ruột.
Phẫu thuật bướu tế bào mầm ác tính
Phẫu thuật hoàn toàn với xếp giai đoạn được khuyến cáo là phẫu thuật ban đầu cho những bệnh nhân không mong muốn bảo tồn chức năng sinh sản. Phẫu thuật bảo tồn chức năng sinh sản nên được cân nhắc cho những người mong muốn bảo tồn chức năng sinh sản bất kể giai đoạn nào. Nên theo dõi bằng siêu âm nếu cần thiết. Phẫu thuật hoàn toàn nên được cân nhắc sau khi sinh đủ con.
Phẫu thuật ung thư buồng trứng mô đệm-dây sinh dục
Bệnh nhân có bướu mô đệm-dây sinh dục giai đoạn IA hoặc IC mong muốn bảo tồn chức năng sinh sản nên được điều trị bằng phẫu thuật bảo tồn chức năng sinh sản với xếp giai đoạn hoàn chỉnh. Nên theo dõi bằng siêu âm nếu cần thiết. Phẫu thuật hoàn tất nên được cân nhắc sau khi sinh đủ con.
Xếp giai đoạn hoàn chỉnh cũng được khuyến cáo cho tất cả các bệnh nhân khác, nhưng có thể không nạo hạch đối với các bướu còn giới hạn ở buồng trứng. Đối với bướu tế bào hạt di căn hoặc tái phát, nên phẫu thuật giảm tế bào bướu gian kỳ nếu khả thi.
Xạ trị
Ví dụ: xạ trị ngoài (EBRT), xạ trị trong
Xạ trị có vai trò hạn chế trong điều trị ung thư biểu mô buồng trứng. Có thể sử dụng như điều trị bổ trợ cho bướu mô đệm-dây sinh dục ác tính giai đoạn II-IV với bệnh giới hạn. Có thể hữu ích trong điều trị giảm nhẹ để giảm triệu chứng do bướu nguyên phát hoặc di căn. Xạ trị được sử dụng cho những bệnh nhân có di căn có triệu chứng đến xương, hạch thượng đòn, hạch bẹn, hoặc não. Xạ trị cũng hữu ích cho những bệnh nhân có bướu khu trú ở vùng chậu (ví dụ có triệu chứng về chèn ép đám rối thần kinh, chảy máu, đau hoặc ứ trệ tuần hoàn). Xạ trị khu trú giảm nhẹ cũng là một lựa chọn để điều trị tái phát.
Xạ trị có vai trò hạn chế trong điều trị ung thư biểu mô buồng trứng. Có thể sử dụng như điều trị bổ trợ cho bướu mô đệm-dây sinh dục ác tính giai đoạn II-IV với bệnh giới hạn. Có thể hữu ích trong điều trị giảm nhẹ để giảm triệu chứng do bướu nguyên phát hoặc di căn. Xạ trị được sử dụng cho những bệnh nhân có di căn có triệu chứng đến xương, hạch thượng đòn, hạch bẹn, hoặc não. Xạ trị cũng hữu ích cho những bệnh nhân có bướu khu trú ở vùng chậu (ví dụ có triệu chứng về chèn ép đám rối thần kinh, chảy máu, đau hoặc ứ trệ tuần hoàn). Xạ trị khu trú giảm nhẹ cũng là một lựa chọn để điều trị tái phát.